Thứ Năm, 13 tháng 4, 2023

Vấn đề nhạy cảm ; Sensitive issues - Next

      Về tình dục (tt.) ; About sex (cont.)
            Nhưng đời sống không quá nông cạn đâu.; But life is not so shallow.; Đời sống đòi hỏi chúng ta phải sống một cách trọn vẹn, mà bởi vì chúng ta đang sống quá nông cạn, cho nên chúng ta chỉ biết phản ứng nông cạn thôi !; Life requires us to live to the fullest, but because we are living so shallowly, we only know how to react shallowly!; Những gì chúng ta làm ở ngoại điểm, ở mặt ngoài của trung tâm điểm, đều nhất định phải tạo ra vấn đề.; What we do on the periphery, on the outside of the center, is bound to create problems.; Và điều đó lại là đời sống của chúng ta: chúng ta sống hời hợt trên mặt ngoài.; And that is our life again: we live superficially on the surface.; Và chúng ta lại hài lòng với cuộc sống nông cạn như vậy, cùng với tất cả những vấn đề thiển cận, lềnh bềnh ở mặt ngoài.; And we are content with such a shallow life, with all the superficial, floating problems on the surface.
               Những vấn đề chỉ hiện-hữu, khi mà chúng ta vẫn sống ở mặt ngoài thiển cận, ở ngoại diện, ngoại diện ấy chính là cái ‘tôi’.; Problems only exist, as long as we still live on the superficial side, on the outside, that surface is the 'me'.; Và những cảm giác của nó, những cảm giác ấy có thể được ngoại hóa hoặc chủ quan hóa, có thể được đồng hóa với vũ trụ, với đất nước hoặc với một sự thể gì khác làm thành do tâm trí.; And its sensations, which can be externalized or internalized, can be identified with the universe, with the country, or with some other thing made up of the mind.; Khi mà chúng ta còn sống trong lãnh vực của tâm trí thì nhất định phải có những sự rắc rối phức tạp, nhất định phải có những vấn đề, đó là tất cả những gì chúng ta biết được. ; As long as we live in the realm of the mind there must be complications, there must be problems, that's all we know.; Tâm trí là cảm giác, tâm trí là kết quả của những cảm giác tích trữ, của những phản ứng. ; Mind is sensation, mind is the result of accumulated sensations, of reactions.; Và bất cứ cái gì tâm trí chạm tới đều nhất định tạo ra sự thống khổ, hỗn loạn, một vấn đề bất tận.; And whatsoever the mind touches is bound to create anguish, confusion, an endless problem.; Tâm trí là nguyên nhân thực sự của những vấn đề chúng ta, tâm trí vẫn luôn luôn làm việc một cách máy móc suốt ngày đêm, một cách ý thức và một cách vô thức. ; The mind is the real cause of our problems, the mind is always working mechanically around the clock, consciously and unconsciously. 
                 Tâm trí là một sự thể nông cạn hời hợt nhất và chúng ta đã trải qua bao nhiêu thế hệ, trải qua bao nhiêu thời gian suốt trọn đời mình để rèn luyện tâm trí.; The mind is the most superficial thing and we have spent generations and generations of our lives training the mind.; Làm tâm trí càng lúc càng trở nên tinh ranh hơn, càng lúc càng trở nên điêu luyện tinh vi, càng lúc càng trở nên bất thiện và bất chánh.; Make the mind become more and more cunning, become more and more sophisticated, become more and more unwholesome and unrighteous.; Tất cả những chuyện ấy dễ thấy lộ liễu trong tất cả sinh hoạt của đời sống chúng ta.; All of these things are readily apparent in all the activities of our lives.; Chính bản chất của tâm trí chúng ta là bất lương bất chánh, không có khả năng đối mặt với những sự kiện và tâm trí chính là tác giả của những vấn đề: tâm trí chính là vấn đề, đấy!; It is the very nature of our minds to be dishonest, incapable of facing facts, and the mind is the author of the problems: the mind is the problem, see! (see?: đọc lên giọng "hiểu không"?)
      (Đoạn trên: chúng ta đọc lại; Paragraph above: we reread)
      *&*
                Đối với chúng ta, chúng ta hiểu vấn đề tình dục như thế nào?; For us, how do we understand sex?; Có phải đó là hành vi, hoặc đó là một tư tưởng chung quanh hành vi?; Is it the behavior, or is it an idea surrounding the behavior?; Cố nhiên đó không phải là hành vi.; Of course that's not behavior.; Hành vi tình dục không phải là một vấn đề đối với bạn.; Sexual behavior is not a problem for you.; Cũng như việc ăn uống không phải là một vấn đề đối với bạn.; Just as eating shouldn't be a problem for you.; Nhưng nếu bạn nghĩ về chuyện ăn uống hoặc bất cứ chuyện gì khác suốt ngày, bởi vì bạn không có gì khác để nghĩ tới thì tất nhiên nó trở thành một vấn đề đối với bạn. ; But if you think about eating or anything else all day, because you have nothing else to think about then, of course, it becomes a problem for you.
                Hành vi dục tình có phải là vấn đề hoặc có phải đó là tư tưởng, ý nghĩ về hành vi kia?; Is the sexual act the problem or is it the thought, the thought about the other behavior?; Tại sao bạn nghĩ về hành vi ấy?; Why do you think that behavior?; Tại sao bạn xây dựng chuyện ấy cho thành vấn đề; điều mà bạn đang làm lộ liễu?; Why do you make it a problem; what are you doing openly?; Tại sao bạn lại dựng chuyện ấy?; Why are you making that up?; Những rạp chiếu bóng, những tạp chí, những chuyện ngắn, chuyện dài, những mốt ăn mặc của đàn bà, tất cả mọi sự đều dựng tư tưởng ý nghĩ của bạn về tình dục.; The cinemas, the magazines, the short stories, the long stories, the women's fashions, everything builds up your thoughts about sex.; Tại sao tâm trí lại dựng lên chuyện ấy, tại sao tâm trí lại nghĩ về tình dục nhỉ?; Why does the mind make up stories, why does the mind think about sex?; Tại sao?; Why?; Tại sao việc ấy lại trở thành một vấn nạn trọng tâm của đời sống bạn?; Why has it become such a central issue in your life?
                Khi còn quá nhiều việc kêu gọi đòi hỏi chú ý của bạn mà bạn vẫn để trọng tâm trí vào ý nghĩ về dục tình.; When there are so many things calling for your attention, you keep your mind on the thought of sex.; Cái gì xảy ra vậy, tại sao tâm trí của các bạn lại quan tâm với tình dục như vậy?; What happened, why is your mind so concerned with sex?; Bởi vì đó là con đường đào thoát tối thượng, phải thế không?; Because that's the ultimate escape route, isn't it?; Đó là cách để tự quên mình một cách toàn triệt.; That is the way to completely forget yourself.; Ít nhất trong một thời gian ngắn, tạm thời, bạn có thể quên bạn; At least for a little while, temporarily, you can forget you– và không có đường lối nào khác để quên mình như vậy.; and there is no other way to forget yourself like that.; Tất cả mọi việc làm khác của bạn đều nhấn mạnh tăng trưởng cái ‘tôi’: bản ngã.; All your other doings emphasize the growth of the 'me': the ego.
               Việc làm ăn của bạn, tôn giáo bạn, những thần thánh của bạn, những lãnh tụ của bạn, những hành vi chính trị và kinh tế của bạn, những sự đào thoát của bạn, những hoạt động xã hội của bạn...; Your business, your religion, your gods, your leaders, your political and economic acts, your escapes, your social activities... ; Việc bạn gia nhập một đảng phái và từ bỏ một đảng phái khác.; The fact that you join one party and leave another party.; – Tất cả những việc ấy đều nhấn mạnh, tăng trưởng, củng cố cái ‘tôi’.; All of these things emphasize, increase, and strengthen the 'me'.; Nghĩa là chỉ có một hành vi duy nhất mà không tăng trưởng cái ‘tôi’, do đó, hành vi ấy trở thành một vấn đề, phải thế không?; That is, there is only one act without the growth of the 'I', so that behavior becomes a problem, doesn't it?
             Khi chỉ có một điều duy nhất trong đời sống bạn làm cửa ngõ để đào thoát triệt để, để tự quên mình.;When there is only one thing in life you serve as the gateway to a radical escape, to self-forgetfulness.; Dù là chỉ quên trong đôi ba giây phút thì bạn bám níu vào nó bởi vì đó là giây phút duy nhất mà bạn cảm thấy hạnh phúc.; Even if you just forget for a few seconds, you cling to it because that is the only moment when you feel happy.; Tất cả những cửa ngõ khác mà bạn chạm đến đều trở thành một ác mộng, nguồn gốc của đau khổ quằn quại. ; All other gateways you touch become a nightmare, a source of writhing suffering. ; Vì thế bạn liền đeo bám vào một sự việc duy nhất khả dĩ mang đến sự quên lãng bản thân trọn vẹn, mà bạn gọi là sự hạnh phúc.; So you cling to the only thing that can bring about complete self-forgetfulness, which you call happiness.
              Nhưng khi bạn đeo bám vào nó, nó cũng trở thành một ác mộng nữa, vì lúc ấy bạn muốn tự do thoát khỏi nó, bạn không muốn là nô lệ cho nó.; But when you cling to it, it also becomes a nightmare, because then you want to be free from it, you don't want to be a slave to it.; Thế là bạn bày đặt bằng tâm trí, bày đặt nào là chuyện trinh bạch, sự độc thân, và bạn cố gắng sống độc thân, sống thuần khiết trinh tân, bằng sự đàn áp cưỡng ép.; So you set up with your mind, set up what is chastity, celibacy, and you try to live celibacy, live pure chastity, by coercive repression.; Tất cả những thứ này đều là những tác động của tâm trí để tự cắt lìa ra ngoài sự kiện.; All these are effects of the mind to cut itself off from the fact.; Điều này lại vẫn tăng trưởng cái ‘tôi’, bản ngã kia cố gắng trở nên một sự thể nào đó, thế rồi bạn lại bị kẹt trong khổ nhọc vất vả, trong phiền bực nỗ lực, đau đớn dày vò.; This again grows the 'me', the other ego tries to become a certain thing, then you are again stuck in toil, in effort, in torment.
               Tình dục trở nên một vấn đề khó khăn và phức tạp lạ thường khi mà bạn không hiểu tâm trí, tức là sự thể nghĩ về vấn đề.; Sex becomes an incredibly difficult and complicated matter when you don't understand the mind, which is the way to think about the problem.; Chính hành vi không bao giờ có thể là một vấn đề, mà ý nghĩ về hành vi mới là cái tạo ra vấn đề.; The behavior itself can never be a problem, it is the thought of the behavior that creates the problem.; Hành vi là điều bạn gìn giữ lại.; Behavior is what you keep.; Bạn sống buông lung, hoặc đắm mình trong hôn phối, làm người vợ mình trở thành một gái đĩ, điều ấy đã được sơn phết bên ngoài cho có vẻ khả kính, và bạn thỏa mãn để yên mọi sự như thế.; You live loosely, or wallow in marriage, turning your wife into a prostitute, which has been painted on the outside to appear respectable, and you are content to leave things as they are.
              Chắc chắn vấn đề chỉ có thể giải quyết khi nào bạn hiểu trọn vẹn tiến trình và cơ cấu của cái ‘tôi’ và cái ‘của tôi’: vợ tôi, con tôi, tài sản của tôi, xe ô tô của tôi, sự thành đạt của tôi, sự thành công của tôi.; Surely the problem can only be solved when you fully understand the process and structure of 'me' and 'mine': my wife, my children, my property, my car, my life my success, my success.; Chỉ khi nào bạn hiểu được và giải quyết được tất cả những thứ ấy thì tình dục mới không còn là một vấn đề nữa.; Only when you understand and deal with all these things will sex no longer be an issue.
               Khi mà bạn còn tham vọng về mặt chính trị, về mặt tôn giáo hoặc về bất cứ mặt nào khác.; As long as you are ambitious politically, religiously or otherwise.; Khi mà bạn còn nhấn mạnh củng cố bản ngã, thực thể tư duy, thực thể kinh nghiệm, bằng cách nuôi dưỡng mình với tham vọng.; As long as you emphasize strengthening the ego, the thinking entity, the experiential entity, by nurturing yourself with ambition.; Dù tham vọng nhân danh chính cá thể bạn hoặc nhân danh đất nước, đảng phái hoặc một ý tưởng mà bạn gọi là tôn giáo; Whether ambitious on your own behalf or in the name of a country, party or an idea you call religion; – Khi mà hãy còn sinh hoạt bành trướng tự ngã thì bạn sẽ còn vấn đề tình dục.; As long as you are active in your ego, you will have sexual problems.; Bạn đang tạo tác, nuôi dưỡng, bành trướng bản ngã ở mặt này, và ở mặt khác, bạn đang tự quên lãng, tự đánh mất mình dù là chỉ một khoảnh khắc.; You are creating, nurturing, expanding your ego on the one hand, and on the other hand, you are forgetting, losing yourself even for a moment. 
               Làm thế nào cả hai mặt có thể hiện hữu chung nhau được?; How can both sides exist together?; Đời sống của bạn là một sự mâu thuẫn; vừa tăng trưởng củng cố cái ‘tôi’, vừa quên lãng cái ‘tôi’. ; Your life is a contradiction; both growing and strengthening the 'me', while forgetting the 'me'.; Tình dục không phải là một vấn đề, vấn đề là sự mâu thuẫn này trong đời sống của bạn, và sự mâu thuẫn ấy không thể nào giải quyết được bằng tâm trí, vì tâm trí chính là một nỗi mâu thuẫn. ; Sex is not a problem, the problem is this contradiction in your life, and that contradiction cannot be resolved with the mind, because the mind is a contradiction.; Sự mâu thuẫn chỉ có thể hiểu được khi nào bạn hiểu trọn vẹn toàn thể tiến trình trong đời sống thường nhật của bạn.; The contradiction can only be understood when you fully understand the whole process of your daily life.
                Việc đi xem chiếu bóng, ngắm nhìn đàn bà trên màn ảnh, đọc sách để kích thích tư tưởng.; Going to the cinema, watching women on the screen, reading books to stimulate thought.; Đọc tạp chí với những hình ảnh bán thân lõa thể, cách bạn nhìn đàn bà.; Read magazines with nude pictures, the way you look at women.; Những con mắt tình tự: giấu giếm, bắt gặp đôi mắt bạn...; The eyes of love: hide, meet your eyes...; – tất cả những thứ này đều khích lệ tâm trí bạn: bằng những đường lối quanh co, bất chánh, để tăng trưởng nhấn mạnh bản ngã và đồng thời bạn lại cố gắng tử tế, dễ thương, dịu dàng.; All of these things encourage your mind: in crooked, unrighteous ways, to increase your ego-emphasis and at the same time try to be kind, likable, and gentle
      Thành viên Google dịch

                Cả hai cảm trạng này không thể đi đôi với nhau ; These two feelings can't go together; – Kẻ nào tham vọng: dù là tham vọng tâm linh hay bất cứ tham vọng gì cũng không bao giờ có thể không vướng với một vấn đề.; Whoever is ambitious: whether it is spiritual ambition or whatever it is, can never be without a problem.; Những vấn đề chỉ chấm dứt lúc nào bản ngã đã được bỏ quên.; Problems end only when the ego has been forgotten.; Lúc nào cái ‘tôi’ không hiện hữu, và cảm trạng không có bản ngã kia không phải là một hành vi của ý chí, đó chỉ là một phản ứng. ; Whenever the 'I' is not present, and that feeling of being without self is not an act of will, it is only a reaction.
                Tình dục trở thành một phản ứng: khi tâm trí cố gắng giải quyết vấn đề.; Sex becomes a reaction: when the mind tries to solve a problem.; Tâm trí chỉ làm vấn đề trở nên hỗn độn hơn lên, phiền phức hơn nữa, đau đớn hơn nữa.; The mind only makes matters more confusing, more troublesome, more painful.; Hành vi không phải là vấn đề mà tâm trí chính là vấn đề, tâm trí nào cho rằng nó phải trinh khiết, chính tâm trí ấy mới là vấn đề.; The behavior is not the problem but the mind is the problem, the mind that thinks it must be chaste, it is the mind that is the problem.; Sự trinh khiết tình dục, sự ly dục, không thuộc về tâm trí.; Sexual chastity, celibacy, is not of the mind.; Tâm trí chỉ có thể đàn áp chính những sinh hoạt của nó và sự đàn áp kia không phải là sự ly dục, không phải là sự thuần khiết.; The mind can only suppress its own activities and that suppression is not renunciation, not purity.; Sự ly dục không phải là một đức tính, mình không thể rèn luyện sự ly dục. ; Separation is not a virtue, we cannot practice seclusion 
      Kẻ nào rèn luyện sự khiêm tốn thì nhất định không phải là một người khiêm tốn. ; He who practices humility is certainly not a humble person.; Hắn có thể gọi: sự kiêu ngạo của hắn là sự khiêm tốn. ; He might call it: his arrogance is humility.; Hắn vẫn là một người kiêu ngạo, và đó là lý do cắt nghĩa tại sao hắn tìm cách trở nên khiêm tốn.; He was still an arrogant man, and that was why he sought to be humble.; Kiêu ngạo không bao giờ có thể trở nên khiêm tốn và sự ly dục không phải là một sự thể của tâm trí.; Pride can never be humbled and escapism is not a thing of the mind.; Bạn không bao giờ có thể trở nên thuần khiết, ly dục. Bạn chỉ có thể hiểu biết được sự thuần khiết, sự ly dục.; You can never become pure, estranged. You can only understand purity, detachment.; Khi nào bạn có tình yêu, và tình yêu không thuộc vào tâm trí, cũng không phải là một sự thể của tâm trí. ; When you have love, and love is not of the mind, nor is it a thing of the mind. Vì thế, vấn đề tình dục hành hạ quá nhiều người hiện nay ở khắp thế giới không thể nào giải trừ được, chỉ trừ ra khi nào mình hiểu được tâm trí. ; Therefore, the problem of sex that torments so many people today all over the world cannot be solved unless we understand the mind.; Chúng ta không thể chấm dứt tư duy hiện tại, nhưng tư tưởng chấm dứt lúc nào chủ thể tư tưởng chấm dứt.; We cannot put an end to present thinking, but thought ends as soon as the thinker ceases.; Và chủ thể tư tưởng chỉ chấm dứt lúc nào có sự lĩnh hội về toàn thể tiến trình ấy.; And the thinker ceases only when there is apprehension of the whole process.
      Sự sợ hãi xuất hiện khi nào có sự phân chia giữa người tư tưởng và tư tưởng của hắn. ; Fear arises when there is a division between the thinker and his thought.; Khi không có người tư tưởng, chỉ lúc ấy mới không có sự xung đột [847] trong tư tưởng. ; When there is no thinker, only then is there no conflict [847] in thought.; Những gì tiềm mặc: không cần nỗ lực mới hiểu nổi. ; What is implicit: it takes no effort to understand. ; Chủ thể tư tưởng xuất hiện là do tư tưởng; lúc ấy chủ thể tư tưởng tự vận dụng để rèn đúc uốn nắn, để kìm chế tư tưởng của hắn hoặc chấm dứt những tư tưởng ấy.; 
      Thought-subjects appear because of thought; then the thinker uses himself to forge and mold, to control his thoughts or to put an end to them.; Chủ thể tư tưởng là một thực thể giả tưởng, một ảo giác của tâm trí.; The thinker is a fictitious entity, an illusion of the mind.; Khi có sự ý thức về tư tưởng như là một sự kiện thì lúc ấy không cần phải nghĩ về sự kiện nữa.; When there is awareness of thought as a fact then there is no need to think about the fact.; Nếu có sự trực-thức: đơn giản, không chọn lựa thì lúc ấy điều tiềm ẩn trong sự kiện mới bắt đầu tự hé lộ.; If there is awareness: simple, choiceless, then the latent in the event begins to reveal itself.;  Do đó, tư tưởng như là sự kiện được chấm dứt.; Hence, thought as fact ceased.; Lúc ấy, các bạn sẽ thấy rằng những vấn đề đang gặm nhắm tâm trí các bạn, những vấn đề về cơ cấu xã hội của chúng ta, có thể giải tan được.; Then you will find that the problems gnawing at your mind, the problems of our social fabric, can be solved.; Lúc ấy, tình dục không còn là một vấn đề, tình dục có vị thế riêng của nó, tình dục không phải là một việc dơ nhớp mà cũng không phải là một việc trong sạch thuần khiết.; Then sex is no longer a problem, sex has its own place, sex is not a dirty thing nor is it a pure thing.
              Tình dục có vị trí của nó; nhưng lúc tâm trí đặt một vị trí cao nhất cho nó thì lúc ấy tình dục lại trở thành một vấn đề.; 
      Sex has its place; but when the mind gives it the highest place, then sex becomes an issue.; Tâm trí đặt một vị trí ưu thế cho tình dục bởi vì tâm trí không thể sống mà không được một sự hạnh phúc nào đó, và vì thế tình dục trở thành một vấn đề.; The mind places a dominant position on sex because the mind cannot live without some happiness, and so sex becomes a problem.; Khi tâm trí hiểu được trọn vẹn tiến trình của nó và chấm dứt, nghĩa là lúc tư duy hiện tại ngừng lại thì lúc ấy mới có sự sáng tạo và chính tinh thần sáng tạo làm cho chúng ta được hạnh phúc.; When the mind fully understands its process and ceases, that is, when present thinking stops, then there is creativity and it is the creative spirit that makes us happy.; Được sống trong trạng thái sáng tạo chính là được diễm phúc tuyệt trần, vì đó là sự quên lãng bản thân mà trong đó không còn phản ứng nào khởi phát từ bản ngã.; To live in a creative state is to be supremely blessed, for it is self-forgetfulness in which there is no longer any response from the ego.; Đó là sự thoại ứng độc nhất.; It is a unique dialogue.; Tâm trí phủ nhận tình yêu và không có tình yêu thì không có sự ly dục thuần khiết được.; The mind denies love and without love there is no pure seperation.; Chính bởi vì không có tình yêu cho nên các bạn mới làm tình dục trở thành một vấn đề.; It is because there is no love that you make sex a problem. 
      Tác phẩm: Tự do đầu tiên và cuối cùng ; Works: First and Last Freedom
      Phần 2 – Qanda 21: Về tình dục ; Part 2 – Qanda 21: About sex
      Tác giả: J. Krishnamurti ; 
      Author: J. Krishnamurti
      Người dịch: Phạm Công Thiện ; 
      Translator: Pham Cong Thien
      1. KHÔNG THÀNH KIẾN
      Hỏi:
      - Chúng ta có nên hình thành cái khái niệm về người nào đó hay chăng?
      Krishnamurti đáp:
      Bộ chúng ta nên có khái niệm về người khác chăng? Bộ chúng ta nên hình thành một quan điểm, đánh giá, xét nét về người khác chăng? Khi bạn có khái niệm về thầy của bạn, thì có cái gì là quan trọng đối với bạn? Tôi không nói về bản thân vị thầy, nhưng nói về cái khái niệm của bạn về vị thầy. Và đó là chuyện xẩy ra trong cuộc đời, đúng không? Chúng ta đều có ý kiến về người này, người khác, đúng không? Chúng ta nói: " Hắn thì tốt", "Hắn thì phù phiếm", Hắn thì mê tín", "Hắn làm cái này, cái kia"...Chúng ta thiết lập một bức màn ngăn cách chúng ta với người khác, cho nên chúng ta không bao giờ có thể thật sự tiếp xúc được với người đó. Nhìn thấy ai làm việc gì, chúng ta nói: " Ông ta đã làm việc đó", như vậy, nó chỉ quan trọng ở cái thời gian chuyện đó xẩy ra. Bạn hiểu chăng? Nếu bạn thấy ai đó làm việc gì mà bạn có ý kiến như là người đó làm việc tốt, hoặc xấu, thế là bạn bèn có ý kiến cố định về người đó, để rồi mươi ngày hay cả năm sau, khi bạn gặp lại họ, bạn vẫn còn giữ cái ý kiến của bạn về họ. Nhưng mà trong khoảng thời gian đó, có thể là họ đã thay đổi rồi. Cho nên điều rất quan trọng là đừng bao giờ nói: "Hắn là thế đó", mà nói: "Hắn đã như thế vào tháng Hai", bởi vì tới cuối năm thì hắn đã đổi khác hoàn toàn mất rồi.
      Nếu bạn nói về ai đó: "Tôi biết người này", có thể là bạn sẽ sai hoàn toàn, bởi vì bạn chỉ biết về hắn vào khoảng thời gian nào đó, hoặc bởi một sự kiện xẩy ra vào một thời điểm nào đó, ngoài ra, bạn chẳng biết gì về hắn cả.
      Cho nên điều quan trọng là mỗi khi gặp người nào, bạn hãy tiếp xúc với họ bằng một tâm hồn hoàn toàn trong sáng, không với những thành kiến, không với những định kiến và không với những quan điểm của riêng mình.
      Nguồn (Trích Think On These Things)
      ( Link: Tự hiểu mình's Blog ; Tác phẩm Tự Do Đầu Tiên và Cuôí cùng Phạm Công Thiện dịch giả)
      CUỘC ĐỜI và TƯ TƯỞNG 
      Jiddu Krishnamurti chào đời trong một gia đình Bà-la-môn trung lưu tại ngoại ô tỉnh Madanapalle, miền nam Ấn Độ. Mẹ chết sớm từ khi ông mới lên mười. Tuổi ấu thơ, ông thường xuyên đau yếu, học hành thì lơ đãng, tâm hồn thường chìm đắm trong mơ mộng và có khuynh hướng về tâm linh, về lòng nhân ái, tình thương người, thương vật và yêu thiên nhiên. 
      Cha của Krishnamurti là một viên chức của chính quyền. Khi về nghỉ hưu, ông cụ đề nghị với bà Annie Besant, chủ tịch hội Thông Thiên Học (The Theosophical Society), mà ông cụ là một thành viên, xin vào làm việc cho Hội. Do đó, ông cụ cùng bốn người con dọn về Trụ Sở chính của hội tại Madras, vào lúc Krishnamurti mười bốn tuổi. 
      Hội Thông Thiên Học do bà Helena P. Blavatsky người Nga và một cựu đại tá Hoa Kỳ là ông Steele Olcott thành lập vào năm 1875, là một hội có mục tiêu tìm hiểu các tôn giáo, các nguồn tư tưởng, minh triết, các sự huyền nhiệm trên thế giới cổ kim và các năng lực thần bí nơi con người. Khi đó, hội đang có mục tiêu sửa soạn cho sự  hạ sanh của bồ tát Di Lặc, xuống thế để làm nhiệm vụ Thế Giới Đạo Sư  (World Teacher).  
      Cơ hội gần gũi của gia đình Krishnamurti và bà Annie Besant đã tạo nên một sự gắn bó khắng khít giữa bà và cậu bé mười bốn tuổi yếu ớt, lại có khuynh hướng tâm linh thần bí, và đã khiến cho bà và Bishop Leadbeater phát hiện ra cậu bé Jiddu Krishnamurti chính là vị hóa thân mà họ đang tìm kiếm, với những kinh nghiệm về đột biến tâm linh của cậu, khi đó Krishnamurti mới mười lăm tuổi.  
      Để chuẩn bị chu đáo cho sự xuất hiện của Thế Giới Đạo Sư, hội Thông Thiên Học thành lập một hội đoàn tôn giáo lấy tên là Ngôi Sao Phương Đông (The Order of the Star in the East) và tôn Krishnamurti làm Đạo Trưởng. Nhóm này có nhiều chục ngàn hội viên ở khắp nơi trên thế giới, với nhiều tiền bạc, nhà cửa đất đai tại Âu Châu, Úc châu, Ấn Độ, v.v... 
      Năm 1912, Khishnamurti được hội Thông Thiên Học chính thức tấn phong làm Thế Giới Đạo Sư. Nhưng đến năm 1929, bỗng nhiên ông giải tán hội Ngôi Sao Phương Đông, đọc bản tuyên ngôn "Thực Tại (Chân Lý) là nơi không có lối mòn để vào"  (Truth is a Pathless Land). Làm việc này, ông đã đương nhiên liệng bỏ những tài sản, đất đai, tiền bạc, quyền lực và tất cả mọi vinh dự  mà thế nhân dành cho nhân vật có thẩm quyền, vị Đạo Sư. 
      Từ đó cho đến tận những ngày cuối cùng của cuộc đời ở tuổi 91, ông đáp ứng lời mời từ khắp nơi trên thế giới, thân hành tới ngồi chung trên thảm cỏ, trong nhà hội, trong phòng họp, đến bất cứ nơi nào có người quan tâm để thảo luận với họ những vấn đề về tự do, về sự tự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi tiềm ẩn từ trong tiềm thức, về sự tự gỡ bỏ gông cùm của những lề thói trói buộc con người, gỡ bỏ sự sợ hãi về các loại địa ngục do các tổ chức thần quyền tạo ra để khống chế tín đồ, về tình yêu thuần khiết, về lòng từ bi thương xót, kêu gọi mỗi người phải là nguồn ánh sáng của bản thân, v.v... Những lời thuyết giảng của ông không phải là những kiến giải trong sách vở, nhưng là từ  kinh nghiệm nội tâm. Ông không "thuyết lý", nhưng ôn tồn tâm tình với thính giả về những điều mà tất cả chúng ta quan tâm trong đời sống hằng ngày, nói về những trăn trở, băn khoăn của con người thời đại mới với sự suy sụp tinh thần và bạo lực, nói với từng cá nhân đi tìm sự an lạc, nói với người đang bồn chồn tìm cách giải thoát ra khỏi cái chướng ngại của sự giận dữ , thù hận, sợ hãi, đau khổ đang ám ảnh trong nội  tâm anh ta. Ông luôn luôn tha thiết với việc gỡ con người ra khỏi sự sợ hãi, một hành động "vô úy thí" cao quý. 
      Điểm then chốt đặc biệt của ông là, ngay như khi đang nói về các vấn đề xã hội, chính trị, hoặc kinh tế đang xẩy ra, lời giải đáp của ông cũng từ cái nhìn tận gốc rễ và vượt thời gian. Ông chỉ ra cái nguyên nhân tạo vấn đề nó nằm phía sau như thế nào, và nguồn gốc của mâu thuẫn và bạo lực đã tiềm ẩn trong tâm con người ra sao. Ông không tặng chúng ta một cách giải quyết kiểu "mì ăn liền" cho những vấn đề của thời đại, mà là ông nhìn rõ được rằng những vấn đề này chỉ là triệu chứng của một chứng bệnh thâm căn cố đế, nằm sâu trong tâm não của mỗi người trong chúng ta. Luôn luôn, ông nhắc mọi người về sức mạnh tinh thần của chính bản thân họ, luôn nhắc mọi người nhìn vào nội tâm, tự giải thoát ra khỏi những xiềng xích tư tưởng rập khuôn của người khác. Ông nhắc nhở mọi người đừng tự làm nô lệ cho bất cứ loại tư tưởng nào của bất cứ ai, dù đó là những "thẩm quyền (authority), không những thế , nên tự thanh lọc những ô nhiễm do bị những loại "thẩm quyền" nhồi nhét vào tâm não từ  vô thủy. Ngay cả đến những lời nói của ông, ông cũng yêu cầu mọi người hãy chỉ coi đó là những lời trò chuyện tâm tình giữa những người bạn với nhau, đừng coi như là những lời của bậc thầy, vì chỉ riêng sự coi ai là bậc thầy thì chính cái hào quang tiềm ẩn trong cái ý nghĩ về bậc thầy đã gián tiếp tước đoạt tự do của chính mình, đã làm cho chính mình nhắm bớt mắt trên con đường đi tìm chân lý rồi.  
      Đối với ông, mọi người không cần đạo sư, mà cần tự thức tỉnh. Bởi vì mỗi người đều có khả năng vô biên về sự  tự thức tỉnh này, nếu họ không bị những xiềng xích của truyền thống về sự sợ hãi, không bị những "đạo sư" che mất ánh sáng của chính họ tự chiếu. (This Light in Oneself). Ánh sáng này không ai có thể "cho" người khác, không thể nhận được từ người khác truyền qua như truyền lửa từ ngọn nến này qua ngọn nến khác. Nếu ánh sáng mà có được nhờ sự từ  người khác truyền qua thì chỉ là ánh sáng của ngọn nến, nó sẽ tắt. Chính sự tĩnh lặng, quán chiếu thâm sâu nội tâm, người ta sẽ thức tỉnh, sẽ xuất hiện ánh sáng của chính bản thân. 
      Dù được cả Đông Phương và Tây Phương nhìn nhận như là một trong những đạo sư  uy tín nhất, bản thân ông không tùy thuộc vào tôn giáo, môn phái hay quốc gia nào, đồng thời, cũng không tham dự vào bất cứ một trường phái chính trị hoặc ý thức hệ nào. Ngược lại, ông cho rằng chính những hình thức tổ chức ấy đã chia rẽ con người, đã là nguồn gốc của chiến tranh.  
      Ông luôn luôn nhắc nhở sự  tĩnh tâm, tự thanh lọc những kiến  chấp đã tích lũy trong tâm trí qua thời gian, để tự giải thoát.  
      Trải dài khoảng sáu chục năm đi khắp đó đây, ông được coi như  là người nói nhiều nhất trong thời đại thâu âm. Phần lớn các buổi thuyết giảng, thính chúng lên tới hàng ngàn người, thường ngồi ngoài trời, nhất là tại các thành phố lớn. 
      Ông cũng thường có những buổi thảo luận riêng với các nhân vật danh tiếng thế giới như  ba vị thủ tướng Ấn Độ là Jawaharlal Nehru, Indira Gandhi và Rajiv Gandhi, nhà tôn giáo học Huston Smith, Walpola Rahula, Chogyam Trungpa Rinpoche, nhà vật lý học Dr  David Bohm, nhà văn Aldous Huxley, v.v... 
      Hầu hết các buổi thảo luận này đều có ghi âm, thâu hình, và sau đó được in ra thành sách. 
      Thật là sai lầm đáng tiếc nếu cho rằng những lời thuyết giảng của Krishnamurti chỉ dành cho người lớn tuổi hoặc giới trí thức uyên bác. Trái lại, đó là những điều rất dễ thẩm thấu vào giới trẻ mà ta có thể cảm nhận được sự sống động nơi thính chúng trong video và trong các cuộc thảo luận với học sinh còn được lưu giữ trong nhiều trường học. Là một bậc thầy cao cả, ông tìm cách tạo nên tại những trường này một bầu không khí thoải mái, không sợ hãi và kèn cựa lẫn nhau, khuyến khích các em tự tìm về nội tâm, tìm hiểu chính bản thân mình, thức tỉnh cảm quan của họ về cái đẹp của thiên nhiên, về sự cảm thông , bi mẫn với nỗi thống khổ của kiếp người, khuyến khích họ đi vào những đề tài sinh động, ngay cả đến vấn đề phức tạp nhất như là hoạt động của tâm não con người. Ông kiên trì, tận tụy với lý tưởng "để cho mọi người được tự do, giải thoát vô điều kiện".  
      Cho đến cuối đời ông, vào lúc thế hệ mới của thời đại kỹ thuật tân tiến nở rộ, nhiều người trẻ đã tìm về ông như là tới ngồi dưới một tàng cổ thụ rủ bóng để ươm tẩm phần tâm hồn.  
      Mặc dầu Krishnamurti nói và viết bằng Anh ngữ, các tác phẩm của ông đã được dịch sang gần năm chục thứ tiếng và ấn hành tại nhiều nước. Trên ba triệu ấn bản đã lưu hành khắp thế giới. Các tuyển tập của ông bao gồm trên một trăm ngàn trang viết tay, 2.500 audiotapes và 600 videotapes. 
      Đó là nói về di sản nhìn thấy được. Nhưng đáng kể phải là phần di sản sống động tiềm ẩn trong trái tim và khối óc của biết bao nhiêu con người đã có dịp thấm nhuần tư tưởng uyên áo và tấm lòng trắc ẩn của ông đối với muôn loài 
      Xin ghi lại một vài cảm nhận về ông: 
      * Đức Đạt Lai Lạt Ma: 
      -Krishnamurti là một trong những tư tưởng gia vĩ đại nhất của thời đại. 
      * Deepak Chopra: 
      - Krishnamurti đã ảnh hưởng sâu sắc vào chính cuộc đời tôi, đã giúp tôi vượt qua được sự  tự trói buộc đã kiềm chế tôi trên con đường tới tự do, giải thoát. 
      * Anne Morrow Lindbergh : 
      - Nghe và đọc sách của ông (Krishnamurti) là tự quán chiếu chính mình và thế giới trong một sự tươi mát chan hòa. 
      Xin giới thiệu website có những tài liệu; LINK:  về các bài thuyết giảng của Krishnamurti: 
             
      Link : Về tình dục (tt.) ; About sex (cont.)Video có phụ đề Việt Anh; Videos with Vietnamese English subtitles