Thứ Bảy, 8 tháng 4, 2023

RTT12. Áo cà sa và bình bát chơn truyền; Traditional robes and bowls

Đề tài: giảng luận số 12 (mười hai)
Topic: lecture number 12 (twelve)
Áo cà sa và bình bát chơn truyền
Traditional robes and bowls
Tác giả: MINH ĐĂNG QUANG 
Author: MINH DANG QUANG
&&
Theo phiên bản, xuất bản năm 1993; By version, published in 1993; Hiệu chỉnh và dịch sang Anh ngữ, học trò nầy: tự học tiếng Anh-LÊ ĐỨC HUYẾN; Editing and translating into English, this student: self-study English-LE DUC HUYEN (Trang 180; Page 195)
         *&*
    Áo cà sa và bình bát là mảnh áo, chén cơm.; 
The robes and bowls are pieces of clothes and rice bowls.; Áo cà sa hay còn gọi là "mảnh y bá nạp".; The robe is also known as the "piece of the robe".
 ___ Sao gọi là áo cà sa và bình bát chơn truyền?; Why is it called the kashāya and the traditional bowl? (Kāṣāya, the traditional monastic robes of Buddhist monks and nuns.; Kāṣāya, y phục tu viện truyền thống của các tăng ni Phật giáo.) ☑
VOCA. monastic /mə'næstik/(adj.; Adjective) of communal life sequestered from the world under religious vows; (adj; tính từ) của cuộc sống cộng đồng cách biệt với thế giới theo lời thề tôn giáo; (thuộc) tu viện
(n.; Noun) a male religious living in a cloister and devoting himself to contemplation and prayer and work; (n .; Danh từ) một nam tôn giáo sống trong một tu viện và cống hiến hết mình cho việc chiêm niệm, cầu nguyện và làm việc; (thuộc) phong thái thầy tu
___ Bởi đạo Phật là đạo của người Khất sĩ, Tăng đoàn du hành, con đường của bậc giác ngộ!; Because Buddhism is the way of the mendicant, the traveling Sangha, the path of the enlightened one!Đi theo con đường ấy, là đến với Chơn lý của Võ trụ, để đạt mục đích Niết Bàn.; To follow that path is to come to the Truth of the Universe, to achieve the goal of Nirvana.Khất sĩ với y và bình bát là bậc thượng-trí huệ, sau sự học của lớp thế gian.; The mendicant with his robes and bowls is the superior-wisdom, after the worldly class.; Kẻ du hành học đạo ấy phải đi xin ăn, mặc một bộ áo ba mảnh và một cái chén đựng chứa đồ ăn, để nhẹ mình mà lo tu học, và đi khắp xứ.; That religious pilgrim must beg for food, wear a three-piece robe and a bowl containing food, so that he can take care of himself and study, and travel throughout the country. ☑
            Muốn vào hàng ngũ Khất Sĩ, phải có Chơn-sư truyền dạy!; In order to enter the ranks of the Mendicants, there must be a teaching Master!; Bằng chẳng là như vậy, sẽ ra người "khất-cái", tức là kẻ ăn mày, đê tiện, tội lỗi, mà chúng lại khinh khi.; Otherwise, there will be people who are "beggars", ie beggars, vile, sinners, but they despise.; Vì nếu quả thật là một người Khất sĩ, phải có Chơn truyền và đúng phép!; Because if you really are a Mendicant, you must have a True Tradition  and be right!Có vậy, mới xứng đáng: là một đệ tử của Phật, rồi sẽ tới địa vị của Phật, ai ai cũng tôn sùng và lễ bái.; Only then will it be worthy: to be a disciple of the Buddha, then to the position of the Buddha, everyone will respect and worship.; Khắp cả thế gian, ít ai mà làm theo được, nên phải giúp công ủng hộ, tiếp đón, cúng dường.; All over the world, few people can do it, so they have to help the public to support, welcome, and make offerings.Thế nên từ xưa tới ngày nay, kẻ nào được Chơn sư xét xem, chọn lựa, trên hai năm kỹ lưỡng.; Therefore, from time immemorial to this day, who are examined and chosen by the Master, over two years carefully.; Người ấy có đủ thiện-căn và phước đức, nhân-duyên, mới chịu dạy truyền cho "giáo lý áo cà sa và bình bát", để tách khỏi xa thầy, một mình đi ra tu học thành công.; That person, having enough good roots and merits, and conditions, will be taught to transmit "the teachings of the kashāya and the bowl", so that he can be separated from the teacher, alone, to go out and study successfully.; Thế nên sự được ban truyền y bát, rất kỹ lưỡng khó khăn; mà kẻ nào thọ lãnh phần được là vinh hạnh lắm!; Therefore, the transmission of robes and bowls is very thorough and difficult; and he who receives the share is very honored!; Rồi sẽ nối chí nguyện, giống hệt Tổ, thầy, nối truyền chơn đạo, nên khắp Trời, người đều uy tín, hy vọng cho kẻ đó sẽ đắc đạo buổi tương lai vậy!; Then they will join the aspiration, just like the Patriarch, the teacher, and continue the true path, so all over Heaven, people are reputable, and hope that person will attain enlightenment in the future!; Vả lại, con đường của Phật rất là cao-viễn, như tận trên chót núi cao xa, người mà không cẩn thận ắt sa xuống hố thẳm sâu địa ngục.; Besides, the Buddha's path is very high and far, like at the top of a high mountain, a person who is not careful will fall into the depths of hell.; Nên sự thực hành giáo lý là một còn một mất, tức là một thắng một bại, một Phật một ma.; So the practice of the teachings is one and one loss, ie one victory and one defeat, one Buddha and one ghost.; Nếu phải Khất Sĩ là ở Niết Bàn, bằng ra "khất-cái" là con ma đói ở trong địa ngục.; If yes The mendicant is in Nirvana, then "the beggar" is the hungry ghost in hell.; Vậy nên, áo cà sa và bình bát chơn truyền, xưa nay là giáo lý riêng; đặc sắc do thầy, Tổ trao dạy, một thầy chỉ có một trò thôi!Therefore, the kashāya robes and the traditional bowls, have always been private teachings; special teaching by teachers, Patriarchs, one teacher has only one student!; Quý báu vô cùng, nhờ đó đạo Phật mới được nâng cao, và mãi mãi bền dài không dứt tuyệt.Extremely precious, thanks to that, Buddhism will be enhanced, and forever lasting without end.; 
____ Sự công dụng của áo cà sa, và bình bát ra sao?; What is the use of the robe, and the bowl?
____ Bởi khất cái và Khất sĩ, cũng tương tợ in nhau, vì kẻ gian manh muốn sắm áo, bát bao nhiêu cũng được.Because the beggar and the mendicant are similar, because the "cheat" wants to buy clothes and bowls as much as they want.; Vậy nên, người Khất sĩ phải có thật học, phải có đủ đức hạnh, phải có chơn tu mới gọi đúng danh từ Khất sĩ.; Therefore, a bhikshu* must have real learning, must have enough virtue, must have a true cultivation to call the right name of the bhikshu.;
Note*: Link: Bhikkhu: Tỳ Kheo; a Theravada Buddhist monk.; một nhà sư Phật giáo Nguyên thủy.; A bhikkhu (Pali: भिक्खु, Sanskrit: भिक्षु, bhikṣu) is an ordained male in Buddhist monasticism.[1] Male and female monastics ("nun", bhikkhunī, Sanskrit bhikṣuṇī) are members of the Sangha (Buddhist community).[2]; Một Tỳ khưu (tiếng Pali: भिक्खु, tiếng Phạn: भिक्षु, bhikṣu) là một nam giới xuất gia theo đạo Phật. [1] Nam và nữ xuất gia ("ni cô", b Tỳ-kheo-ni, tiếng Phạn bhikṣuṇī) là thành viên của Tăng đoàn (cộng đồng Phật giáo). [2]
         Giá trị của khất-sĩ với khất-cái khác nhau rất xa, một trời một vực.; The value of a bhikshu and a beggar is very far apart, one heaven and one abyss.; Kẻ khất cái tàn tật mới đi xin, tham-sân-si tội ác chẳng tiêu trừ, mà trái lại khất sĩ là kẻ thông-minh trí thức.; Only the beggars are disabled and beg, greed, hatred, and evil are not eliminated, but on the contrary, the mendicants are intelligent and intellectual.; Kẻ hiền lương mạnh khoẻ, mà lại đi xin ăn nuôi sống, mới là sự chướng ngại: xốn-mắt kẻ thế gian.; Those who are good and healthy, but beg for food to live, are the obstacles: disturbing the eyes of the world.; Là việc làm mà ít ai thấu hiểu, bởi quá cao thâm!; It's a job that few people understand, because it's so profound!; Vậy nên, Khất-sĩ phải có những đức tính hơn người, thấy chắc kết quả mới đứng ra thực hành và làm cho thế gian kính trọng, chẳng dám khinh khi đạo Phật.; Therefore, a bhikshu must have more qualities than others, see the results to be sure to practice and make the world respect and not dare to despise Buddhism.; Đạo Phật xưa và nay: ai cũng cho kỳ lạ, thì ít ra Tăng chúng cũng phải là người kỳ lạ, mới đạt được cái kết quả kỳ lạ ấy!; Buddhism past and present: everyone thinks it's strange, at least the Sangha must be strange people to achieve that strange result!; Tuy nói thế chứ thật ra đạo Phật, con đường của bậc giác ngộ là đúng phải, chớ có đâu kỳ lạ.; Although saying that, in fact Buddhism, the path of the enlightened one is right, not strange.; Mà chúng sanh thì đã quen ở trong cảnh kỳ lạ mãi mãi lâu ngày, nên hầu như là vừa thấy gặp, cho là khác mắt trong giây lát.; But sentient beings are used to being in the strange scene forever, so it is almost as if they have just seen and met, given that they have different eyes for a moment.; Vậy nên lời Phật có dạy: Đạo là thường vui, và có ta!; So the Buddha said: Tao is always happy, and there is me!; Và thế gian là vô thường khổ não không ta, là bởi nơi kỳ hay, mới lạ của sự say sưa, vấp té: lội sình kia đó, vậy!; And the world is impermanent, suffering without me, because of the strange, new place of drunkenness, tripping: wading there, that's it!
           Xưa kia, cổ nhân mặc áo vỏ cây, mỏng manh bằng miếng lá, chẳng có tay ống áo quần may vá, dưới cái chăn trên tấm áo choàng.; Once upon a time, the ancients wore the bark of a tree, thin as a piece of leaf, with no sleeves for sewing clothes, under the blanket on the mantle.; Khi đi đâu thì phủ thêm một tấm choàng vấn lớn từ trên tới dưới.; When going anywhere, cover with a large cloak from top to bottom.; Đêm đến, lấy đó làm mền, nên họ được thong thả, rảnh rang, không điều phiền phức, không có cất giữ dư, để giành cho cắp trộm.; When night comes, take it as a blanket, so they are free, free, no trouble, no extra storage, for theft.; Khi rách mất thì mới sắm thêm cái khác, bỏ ra cái cũ, lúc nào cũng mặc một bộ trong mình, không làm tôi tớ cho áo quần dư dả.; When it's torn, buy another one, take out the old one, always wear one of them, don't serve as a servant for excess clothes.; Muốn đi đâu, ở đâu, vào lúc nào cũng được, không điều chi sót lại.; Wherever you want to go, wherever, whenever you want, nothing is left over.; Cũng như rể có dính liền với cỏ, như lông và da thú dính sát với thịt xương, cho nên lúc nào cũng rảnh trí: thanh nhàn, thung dung, khoái lạc.; Just as the roots are attached to the grass, just as the fur and skin of animals are attached to the flesh and bones, so they are always free: leisure, leisure, pleasure.; Thân như vỏ trái chín mùi đen xấu, mà tâm trí bên trong cứng chắc, lại ngon thơm.; The body is like the skin of a ripe black fruit, but the mind inside is firm and delicious.
         Trẻ nhỏ mới sanh, mẹ cha lót cho miếng tả lót, khăn choàng vải đậy, cũng là bộ tam-y như người xưa.; Newborn babies, parents lining diapers, cloth shawls, are also the same three-shirt as the ancients.; Ông già khi sắp chết bệnh đau, cũng phải chỉ mặc chăn, vải choàng và mền đắp, tam y như trẻ nhỏ.; The old man, when he was about to die, was sick and had to wear only blankets, robes and blankets, wearing three clothes like a child.; Đến chết tắm rửa, liệm đem theo cũng tam y đó vậy.; Even when he died, he bathed and wrapped himself in the same three robes.; Người Khất sĩ mặc tam y, để dứt trừ tham vọng, ngăn ngừa kẻ ác đoạn diệt phiền não, trong tâm trong sạch nên gọi là y thanh tịnh.; The mendicant wears the three robes, in order to eliminate ambition, prevent the wicked from destroying afflictions, with a pure mind, it is called pure robe.; Cũng gọi là áo cà sa giải thoát, áo rảnh rang; hay là y trẻ nhỏ, áo ông già, y cổ nhân, áo người trí, y của kẻ Chân-như v.v…; Also called liberated robes, free robes; or children's clothes, old men's clothes, ancient people's clothes, wise people's clothes, True-like's clothes, etc.
            Xưa giống loài người sanh tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn trung ương Ấn-Độ, mặc khố, áo choàng.; In the past, human beings were born at the foothills of the Himalayas in central India, wearing loincloths and robes.; Lần lần họ tản mác sang phương Tây xứ lạnh, mới mua sắm và may mặc bố bô dầy nóng.; The last time they scattered to the West of the cold country, they shopped and dressed in hot and thick clothes.; Họ tập làm máy móc công nghệ, mới may thêm có nút, có ống có tay áo cho lanh gọn.; They practice making technological machines, newly sewn with buttons and sleeves for neatness.; Về sau, phuơng Đông tập nhiễm sắm áo quần, lại còn chế ra mỏng manh, trơn láng, tuỳ theo mùa nóng lạnh.; Later, the East learned to buy clothes, and also made them thin and smooth, depending on the hot and cold season.; Cho đến ngày nay, chẳng những vì cái mặc che thân đậy bệnh, mà còn trau chuốt se sua, để phô bày bóng dáng.; To this day, it is not only because the clothes cover the body that the disease is covered, but also elaborate the beauty, to show the shadow.; Nay vầy mai khác thay đổi vô thường, khổ não vì quần áo và cũng chưa biết được cái ta đã định, của ta là thứ kiểu màu nào chắc chắn.; Today and tomorrow change impermanence, suffering because of clothes and also do not know what we have planned, what kind of color we have for sure.; Buông thả cho cái ý buông lung, lựa chọn, hành ma tác quái, biến thuật nhiệm mầu, xúi kẻ gian tham, xúi người bày sanh giặc giã.; Let go of the will to let loose, choose, practice magic tricks, turn miracles, incite crooks to be greedy, incite people to create wars.; Cũng có kẻ: sau khi hưu trí, sau buổi việc làm trút hơi thở dài, bằng sự cởi bỏ áo quần, vận chăn đóng khố, vai vắt khăn lau...; There are also people: after retirement, after work, take a long breath, by taking off clothes, wearing blankets and loincloths, shoulder towels...; Họ đi tắm dưới sông hay trong phòng kín, lấy làm sung sướng mát mẻ khoẻ khoắn, say sưa với vẻ đẹp của sự mặc rảnh rang sau cơn khổ nhọc.; They bathed in the river or in a closed room, enjoying the coolness of their health, reveling in the beauty of their free wear after their toil.; Trong lúc ấy, có kẻ lại sợ áo quần, khổ sở và ao ước sự thong thả mà mặc chăn đơn.; Meanwhile, there are people who are afraid of clothes, miserable and longing for leisure, but wear a single blanket.; Họ chán nhàm với áo quần lao lực, ghê tởm những y phục se sua, sợ sệt cho cái tham sân si dối giả, của đời ác trược ở nơi quần áo.; They are bored with working clothes, disgusted with shabby clothes, afraid of greed, hatred, delusion and falsehood, of the evil life in clothes.; Có người lại ao ước cái mặc chơn thật, cái mặc có ta, cái mặc thường bền, cái mặc yên vui của người khất sĩ.; Some people wish for the true dress, the one with me, the durable wear, the mendicant's comfortable dress.; Họ muốn trở lại thanh nhàn, nương theo lẽ phải, để tìm lo tu học, mà đã lỡ bước vướng chơn rồi, khó bề lui tới, thật là rất thương hại cho giùm.; They want to return to leisure, follow the right, to seek care and study, but they have missed their steps and are difficult to go back and forth, it is very pity for them. ☑
          Con người cũng vì sự mặc lành tốt, miếng ăn ngon, chỗ ở đẹp, thuốc ngọt thơm, mà phải chịu chết với nhau, kéo nhau vào hố độc và thụt lùi vô hang tối.; Humans also because of good clothing, delicious food, beautiful shelter, sweet and fragrant medicine, but must die together, drag each other into the poison pit and retreat into the dark cave.; Dầu họ biết đó là chỗ chết, chỗ tiêu diệt, khổ điên cuồng, nhưng bởi sự lôi cuốn rủ ren, sự đua chen cám dỗ, bởi trớn nặng té ngã của số đông người.; Even though they know it is a place of death, destruction, and madness, but because of the seductive attraction, the temptation to compete, by the weight of the fall of many people.; Nên kẻ yếu sức, khó bề đứng gượng, cũng phải chịu sự xô nhào, chúi nhủi như ai, thật đáng thương thay.; So the weak, difficult to stand up, also have to endure the jostling, bending like anyone, it is pitiful.; Thế thì cái mặc áo vá bô dầy, lượm xin vải bỏ, may vá khâu lại, màu dơ bẩn và xấu xí, cùng sự ăn xin rau, trái trộn lộn.; Then the wearing of thick patchwork, begging for discarded cloth, sewing and stitching, dirty and ugly colors, and begging for mixed vegetables and fruits.; Chỗ ở cốc lều, hang bộng, thuốc uống cỏ cây, của người Khất sĩ trí thức: giác ngộ kia, há chẳng phải là sự duy trì về phong hóa, cải sửa cuộc đời?; Accommodation in tents, caves, medicinal herbs, of the wise mendicant: Enlightenment, isn't it the maintenance of the weathering, the improvement of life? Thức tỉnh cho người, chỉ đường nẻo sống, dắt đến chỗ yên vui, chống ngăn cơn sập đổ, cứu vớt biết bao người, ích lợi biết bao nhiêu, và có gì khó hiểu.; Awakening people, showing the way to life, leading to a place of peace, preventing collapse, saving many people, so many benefits, and what is difficult to understand.
           Cho đến miếng ăn của người Khất sĩ cũng y như vậy, cổ nhơn xưa ít quen ăn lạm xạm, ở không, ngày ăn một bữa, cũng đủ no lòng.; Even the food of the mendicant is the same, the ancients were not used to eating too much, staying empty, eating one meal a day, was enough.; Xin nơi rau trái, ở nơi vườn rừng, khi vào xóm dạy đạo cho người, không chút rảnh rang.; Asking for vegetables and fruits, in the forest garden, when going to the village to teach people the religion, there is no free time.; Nên phải đi xin nơi người dư giả, xin của học trò, xin nơi người từ thiện, xin chén cơm dư thừa thải của kẻ tối tăm.; So we have to ask from the rich, from students, from philanthropists, and ask for a bowl of leftover rice from the dark.; Cái xin tốt đẹp nơi người cho, xin để kết duyên bạn đạo, xin để giáo đạo, để cảm hóa tâm người, và nhắc nhở cho họ nhớ lại thuở ngày xưa.; Ask for good things from the giver, ask for a friendship, ask for a religion, to touch people's hearts, and remind  for them to remember the old days.
           Khất sĩ giống như người chết ông già, hay trẻ nhỏ mới sanh, hoặc như người bịnh, giống kẻ cổ nhân, in như người đi du lịch, nào khác kẻ dạo đồng, tắm biển, hứng mát bờ sông.; A bhikshu is like a dead old man, or a newborn baby, or like a sick person, like an old man, like a traveler, like someone walking in the fields, swimming in the sea, catching up on the riverbank.; Họ đi đâu, chỉ đem theo cái chén to bằng đất để đựng đồ ăn là đủ.; Wherever they go, it is enough to bring only a large earthen cup to hold their food.; Vừa là để tránh sự bối rối thiếu hụt, tay không khi đến bữa ăn, vừa là gọn tiện, một cái chén đủ đựng chung ăn trộn, để khi vào bụng rồi, thì nó cũng lộn xộn in nhau. Một cái chén to, một lon nước uống, một muỗng múc đồ ăn, đủ làm của cải theo mình đi đây đó, trọn đời không lo cất giữ, áo bá-nạp tháo ra, vá may lại nhiều miếng, dầu có kêu cho cũng không ai lấy, bát đất như nồi thố đen thui, quên bỏ chẳng ai giành, bán chẳng ai mua, nài không ai nhận. Cũng như thân mình chết bỏ, vật tạm chẳng tiếc ham, khi rách bể, xin nơi giàu nghèo ai ai đều sẵn có, trộm cắp chẳng rình mò, nằm đêm không lo sợ, thong-thã rất thanh-nhàn. Muốn nhập-định lúc nào cũng được, muốn chết lúc nào cũng an, học gẫm điều chi không xáo-trộn, bằng mất hết cũng không nhìn, một hột gạo cũng không, một đồng xu không có, chẳng cất dành đem một món ăn chi, không một miếng vải dư, giờ trưa xin đủ ăn, có dư thì bố-thí, đặng để có thì giờ nuôi trí.
Điều quý nhứt của người Khất Sĩ là sự giữ gìn giới luật:
1) Cấm: sát sanh. (người, thú, cây to)
1) Prohibition: killing. (people, animals, big trees)
2) Cấm: trộm cắp.(của người, thú, cây to)
2) Prohibition: thefts. (of people, animals, big trees)
3) Cấm: dâm dục.(với người, thú, cây to) (thọ-thần)
3) Prohibition: sexual immorality. (with people, animals, big trees) (feeling-gods)
4) Cấm: nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi.
4) Prohibition: lie, brag, piercing, verbally abusive.
5) Cấm: uống rượu, tham lam, sân giận, si mê.
5) Prohibition: drinking alcohol, greed, anger, delusion.
6) Cấm: (trang điểm) phấn, son, áo quần hàng lụa tươi tốt. (như kẻ sang giàu)
6) Prohibition (makeup) powder, lipstick, lush silk clothing. (as to the rich man)
7) Cấm: nghe, xem hát, múa, các nhạc cụ, kèn, yến tiệc vui đông người. (như vị quan lại)
7) Prohibition: hear, see singing, dancing, musical instruments, trumpet, large banquets fun. (as the officials)
8) Cấm: ngồi ghế cao, nằm giường rộng, chiếc chiếu lớn xinh đẹp. (chỗ xinh đẹp như ngôi vua)
8) Prohibition: seat height, wide bed, large mats beautiful. (beautiful place as king)
9) Cấm: ăn sai trái giờ từ quá ngọ đến ngọ mai. (phải ăn chay !)
9) Prohibition: eat the wrong hour from midday to midday tomorrow. (to be vegetarian!)
10) Cấm: rớ đến tiền, bạc vàng, của quý, đồ trang sức.
10) Prohibition: touch money, silver and gold, of precious jewelry.
          Để tập tâm chơn, lần giữ oai-nghi hạnh-kiểm 250 điều, cử chỉ đoan-trang nết-na đầm thắm, không chung lộn với kẻ vậy tà. Nơi cốc am ngoài đường xá, vào xóm nơi rừng đi đứng ngồi nằm, ăn mặc nói làm, thức ngủ sống chết, thân tâm trí tánh, thảy ôn-hòa nhả-nhặn, từ-bi trống rỗng. Sống với chúng-sanh chung, bình-đẳng không trói buộc, hỷ-xả chằng câu hềm, tâm thì nhập-định vắng êm, trí-năng soi ra cắt đứt điều ô nhiễm. Chỉ lo tập tánh chơn-như, hằng ngày lòng không vướng mắc, chẳng buộc ràng, không hơn thua cùng ai cả thảy, ai có duyên đến hỏi thì chỉ dạy, nói vài lời, không việc thì nghỉ yên, không tìm vọng động ác quấy, khoẻ-khoắn biết là bao. Ấy cũng nhờ y theo nơi chơn-lý, chánh-pháp của võ-trụ: Là sự ăn mặc ở bịnh chẳng lo, mới được yên vui như vậy, ăn phải đi xin, mặc áo vải vá, chỗ ở lều lá gốc cây, bịnh không tự lo tìm thuốc uống. Nếu là ta sống có lợi-ích lại cho người, thì người khác họ cũng sẽ sống có ích-lợi cho ta, y theo lẽ tiến-hóa, chẳng bảo cho ai, tự lo lấy mình và không để cho ai có lòng tư-kỷ, mà kẻ nào sái đạo-luật, thì phải bị phạt răn khổ-sở thất bại đau sầu.
         Giá trị của người Khất-Sĩ là mắt tai mũi lưỡi miệng thân ý phải cho trọn lành trong sạch, do nhiều đời trước có tu hiền, phải là người có tu tập bố-thí, phước lành không bỏn-xẻn, phải là người có nhơn-đức biết thương yêu cứu giúp chúng-sanh, không tham sân si tật đố, ích-kỷ tự-cao, phải là người trước có nhơn-duyên gặp Phật, nghe Pháp gần Tăng, tập giữ giới-hạnh, hoặc đã có theo hầu thầy được dạy dỗ. Người Khất-Sĩ phải có đủ điều kiện của một người học trò, không dính dấp con, vợ cửa nhà, bệnh hoạn, thiếu nợ, tà ma nhập xác, hoặc kẻ trốn tránh, tội-lỗi chi chi, phải trên mười tám tuổi, phải hiền hậu thông-minh có nết hạnh…
        Đời Khất-Sĩ phải là khổ cực không-không, xem mình đã chết, chỉ sống bằng tâm hồn, nơi cõi nầy cũng như nơi cõi khác, năm nầy cũng như những tháng kia, chỉ biết một việc lo tu học, cho mau tấn tới mà thôi.
       Những ai mới vào tập sự coi khá, thì cho mặc y-bát tạm một thời-gian, hoặc từ hai năm, nếu được thì cho nhập đạo, bằng xem-xét không được thì cho trở ra về thế, vì sự lựa chọn kỹ-lưỡng bậc hiền đức siêu-nhân cho nên đạo Khất-Sĩ Y bát tuy ít mà lại rất cao, người tội-lỗi khó bước lên, kẻ tự-cao khó bước xuống, trong đó thảy thuần-thục như nhau, sự tà ác vô-minh khổ-não không sao có được nên mới gọi Giáo-Hội Tăng-Già, là cõi Niết-Bàn hữu dư trên mặt đất hiện tại. Mà không xã-hội gia-đình nào ví sánh sự hòa-hiệp yên vui của đạo cho kịp. Cho nên đạo là trên trước quí báu hơn hết trong đời, Giáo-lý Y-bát không phải dễ, không phải tự ai muốn bước ra hành là được, nếu kẻ bắt chước ham vui, hoặc không thông chơn-lý, chẳng có giới-hạnh, không hiểu chánh-pháp, chẳng biết cách tu-học, không rõ sự quí giá của muôn đời, chẳng nếm được mùi vị của Niết-Bàn đạo-lý, thì khó mà thật-hành, khó mà chắc chắn bền dài, khó mà giữ hạnh đắc-đạo và nhứt là sẽ bị ma-vương phá đổ, chư thiên xô đùa, nhơn loại bắt tội, thú dữ hại thân, với dễ gì đủ can-đảm diệt lòng tự-trọng, để đứng ra đi xin ăn, bữa no, bữa đói, thấp thỏi ăn mày cho chúng khi ngạo chửi la, làm như kẻ tội nhơn bị sa thải phải mặc áo tù, đầu cạo trọc, xấu hổ hơn kẻ tật nguyền. Bởi vậy cho nên từ xưa tới nay, đứng ra dẫn đầu lập đạo thì chỉ có chư Như-Lai Bồ-Tát, bậc Chánh-Đẳng Chánh-Giác, đại-hùng đại-lực, đại từ-bi hỷ-xả, mới thật hành được. Và từ sau đó, Tăng-đồ nương theo nẻo sẵn mới dễ-dàng đi. Chớ bậc vua Trời người, tuy cũng hiểu thông lẽ ấy mà ngán sợ nỗi thi hành lâu năm nhiều tháng, chán nản rớt rơi té nặng. 
         Thật vậy, đạo khất sĩ, Trang Phục Phật và Bát đất: nguy hiểm lắm!; Indeed, the mendicant, the Buddha's Dress, and the Earth Bowl: very dangerous!; Khất sĩ cũng như người tướng xông pha vào dinh giặc nghịch.; The mendicant as well as the general burst into the enemy's palace.; Chỉ có kẻ đã đắn đo xét kỹ, mới dám bạo gan liều mình bước vào: "quảy bát mang y", chịu khổ sở hơn người tật bịnh.; Only those who have considered carefully, dare to dare to risk their lives to step in: "wear a bowl of clothes", suffer more than the sick.; Ấy vì giáo lý quá cao siêu như mũi dao xoay ngược nguồn đời, cắt đứt tung lưới sắt, đập bể chuồng lồng của thế gian địa ngục, để cứu người thì tránh sao ai nấy vì cảnh quen chóa mắt, mê muội hiểu lầm, mà chém, đâm đánh giặc, đập phá hại đạo, lật đổ đả đảo lăng-xăng, dầu ta có lòng thương vì họ, muốn lập đạo cứu đời, mà mắc phải chúng-sanh nó đi thù nghịch trở lại hại ta, khiến nên sự lo chống đở mệt nhọc, nguy hiểm gây go khó bề đứng vững, vì thế mà lắm nhà sư y-bát thối chí ngã lòng, hoặc tức giận chúng-sanh, mà quay lui bỏ xụi. Sự khổ cực bền gan ấy, cũng như kẻ đầu tiên mở lối chông gai nơi rừng rậm, như sự thương người giải-cứu, mà tất cả trở lại trả ơn cho lòng tốt ấy bằng cách đáp oán gây thù, ta phải bị chúng vây giết hại, vì chúng đã mắc phải bùa độc sảng mê, nên trở làm quyến thuộc ma-vương chướng ngại. Vậy nên không phải lòng từ-bi trí-huệ sáng suốt dõng mãnh như Phật, dễ gì thắng giặc ma-vương cứu tử cháu con, bắt đem về giác tỉnh, để lập thành nền đạo vững chắc trong đời, ấy cũng bởi đạo quá cao thâm, vì đời thương giải cứu, nhưng chúng-sanh đâu rõ cho là kẻ đi phá nghịch nhà họ, nên lo chống báng, khiến kẻ hành đạo thật rất gian nan. Nhưng cũng nhờ có sự gây go ấy, nên mới ít người khất-sĩ, mà kẻ nào được bất thối vô sanh tức thì nên đạo, đó cũng tức là trường thi, nơi sàng lựa chớ không phải là Niết-Bàn, là cảnh dễ đến cho người chưa tắm sạch, mà được hưởng quả yên vui, nhứt là đối với kẻ thân miệng ý chẳng hay ngừng, và những người trẻ con xao-xuyến, thì chẳng bao giờ có được cái vui hay của bậc ông già hưu trí nín nghỉ ấy được. [187]
          Đó là về sự của y-bát, còn giáo-lý y-bát chơn-truyền nghĩa rằng: Y là Pháp, Bát là Đạo, tức là đạo pháp đường chơn truyền dạy, có y-bát mới có chơn-như. Luật-pháp cũng như manh áo che tâm, sự đi sưu-tầm gom góp kinh luật, luận cũng như lượm từ miếng vải đâu kết lại, cho thành kho tạng. Xưa kia đức Huệ-Năng xin chủ đất một lỏm đất đặng trải y, khi đem y-pháp giáo-lý banh trải, hoằng dương truyền bá ra, bằng sự nói pháp, thâu dạy đệ-tử mở khai chánh-giáo, có đến số muôn người, cho nên chật bít cả miếng vườn to, Tăng chúng ở còn thiếu chỗ, mà áo pháp vẫn cò chưa mở banh ra hết. Áo đây tức là pháp-bảo, giáo-lý để đậy che pháp thân là: Kinh-Luật-Luận, cũng là thân đạo, thân của Phật, tức là chơn thân, thân to lớn. Áo của nhà sư cũng như giáp sắt, nhờ mặc nó vào đi xông pha khắp cùng thế-giới, đến đâu cũng được, tà ma ác thú thần quỉ chẳng khá lại gần, nhờ mặc nó mà nhẹ bay trôi khắp cùng thiên-hạ, che cả thân tâm, mà đùm bọc cho biết bao nhiêu kẻ khác. Mỗi miếng vải vá, nhà sư xem như là một điều luật, một câu pháp, một bài kinh, mặc nó vào tâm hồn yên vui thơ-thới, nhờ thanh-bần đơn-giản, mới sống mãi lâu đời tâm hồn sẽ được giàu sang vô-tận.
           Áo ấy Trời người khó mặc, mặc mà hành không đúng, ắt phải họa tai. Áo vá ngăn ranh như ruộng đất, ý-nghĩa nó là ruộng phước cho chúng-sanh, hễ ai tìm gặp là mau nên lựa giống đặt gieo-trồng, áo ấy cũng gọi là y nguyên chơn thật, cội nguồn không sửa đổi, y như hồi xưa ông già, trẻ nhỏ, kẻ chết, cổ nhân, y như người rảnh-rang không vọng động. Cũng gọi là đúng Y chơn-lý, Y như luật tiến-hóa mặc nó vào, cuộc đời đã định, muôn kiếp chẳng đổi dời, bao giờ cũng vẫn y nhiên như nguyên, áo vá mà lành, có nghĩa là pháp thiện lành, gom cả chúng-sanh khắp nơi chung hiệp, kết liền làm một cái thể lành để che thân tạm, mà nuôi tâm trí, ấy là giáo-lý chúng-sanh chung, bình đẳng hiệp hòa, trọn lành kính đáo, chẳng để rách, thiếu trống hở trần tâm. Cũng gọi là áo chơn-như không vọng động, cũng gọi áo lành không rách, là thiện lành sống chung không ác hung chia rẽ, cũng là áo giải-thoát khổ, hay gọi giáo-lý yên-vui. Cái Y mặc, mặc vắng lặng, Y như võ-trụ.
          Còn cái Bát là thể của Bát-Chánh-Đạo, đạo Bát-Chánh ví như bầu đựng cơm, đạo như bầu võ-trụ, tâm chúng-sanh như cơm, đồ ăn chứa mang vào trong đó, bầu đạo-đức để rộng chứa quần-sanh, hay là lòng từ-bi của chư Phật hằng ôm giữ. Khi xưa đức Phật Thích-Ca liệng bát xuống sông Ni-Liên, bát nổi trôi ngược một khoảng xa rồi chìm xuống đụng khua cùng bát chư Phật quá khứ, kêu nghe rổn-rảng, có nghĩa là: Ngài thã đạo Ngài xuống chốn sông mê, nổi lên trên cao ráo, trôi ngược trào lưu, qua trên bốn chục năm đi dạy đạo, Ngài mới đứng lại, và Ngài ngưng nghỉ vào Niết-Bàn, hiệp cùng chư Phật quá khứ, thì tiếng đạo lại vang dội lan-tràn, khắp nơi túa rộng.
          Chính đạo Phật là đạo Bát-Chánh, là đạo Khất-Sĩ mới có bát-y, là con đường đến Niết-Bàn kêu là đại-đạo, đường đi ngay thẳng chỗ chứa tâm người. Trong trần thế nầy chỉ có đạo ăn xin là đến nơi rốt ráo, là con đàng đi tắt, mau đến chỗ thành-công, dầu là hạng bậc nào, mục-đích gì mà kẻ thật hành, kiên tâm trì chí, nhẫn nhục, khổ công, xin ăn khó nhọc, lúc buổi ban đầu, thì đến sau cũng sẽ được thành-công, đắc đạo hưởng quả trên người, vì càng khổ nhọc, sẽ là càng sung-sướng, làm trước hưởng sau, nhơn quả vốn không sai chạy, vậy thì những ai:
Muốn làm vua, trước cũng phải đi xin ăn, dồi đức.
Muốn làm quan, trước cũng phải đi xin ăn, học hành.
Muốn được giàu sang, trước cũng phải đi xin ăn, tu phước.
Muốn học sĩ, nông, công, thương, trước cũng phải đi xin ăn, đặng trau tài.
           Trong đời hạng bậc nào trước chẳng có đi xin ăn khổ nhọc, thì ngày sau khó được nên công phú quí, đó là đi xin ăn nhịn chịu thiệt thòi một lúc, để tích-trử phước dư, đặng ngày sau ngồi không ăn hưởng. Mà còn phải đi xin thay, huống hồ giáo-lý y-bát, Niết-Bàn là sự không tiêu sài phước-đức, mãi tích-trữ thêm hoài không lấy bớt, mười phần thêm chỉ hưởng bớt ra ba, còn bao nhiêu chia sớt bố-thí lại cho chúng-sanh, kết duyên thành quyến-thuộc cho thêm sanh lời nẩy-nở, tự mình đi xin mãi mãi, vật-chất miễn đủ dùng nuôi thân mỗi ngày, còn tinh-thần công dư vạn bội, hưởng sự hạnh-phúc nơi thân tâm trí bền-bĩ, há chẳng đáng quí hay sao? Vậy ta nên nhớ rằng: Muốn không công mà trông mong thọ hưởng mãi, là nguồn gốc của sự thất bại.
             Bởi vậy cho nên, những ai khi đã bước chân vào đường y-bát, dầu thiếu trí-huệ ở Niết-Bàn, thì cũng được hưởng phước lạc của thiên-đường, bằng không được thiền định, chỉ có điều trì-giới, thì cũng được làm bậc người trên trước, nhờ sự giữ giới của y-bát mà tránh khỏi địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh, A-Tu-La bốn đường ác đạo như vậy, là oai lực của y-bát rất thần-thông mạnh-mẽ linh diệu đó. Giáo-lý y-bát không còn có nương theo văn-tự, lời nói việc làm, người Khất-Sĩ chỉ có ba pháp tu học vắn tắt là: Giới, Định, Huệ, bởi giữ giới y-bát là giải-thoát mọi điều trói buộc, phiền não ô-nhiễm rồi, nên bằng được thông-thã rảnh-rang, ở trong cái thật cái không xao-động, chỉ còn có nhập-định và tham-thiền, tức là vừa học trong trí-não, vừa để tâm yên lặng, đứng ngừng. Gọi là tâm nghỉ ngơi, và trí làm việc khỏe, làm mệt trí, khi trí làm thì năng sinh huệ, lúc tâm nghỉ thì phát thần-thông: cho nên, quả linh và tiến triển nhiệm-mầu, mà người Khất-Sĩ thì không có phút nào gọi là lêu-lỗng, nhưng đối với sự làm việc định-huệ ấy, không có tướng hình chi cả, nên xem bề ngoài như kẻ ở không. Vậy thế thì giới-luật là Y-bát, Khất-Sĩ là Định, Huệ, nếu Khất-Sĩ không có tu về định-huệ, dầu mà có trì giới không đi nữa, cũng chưa gọi được trọn là Khất-Sĩ, vì chữ Sĩ đây là sự học đạo-lý với quả linh, bằng pháp tu định-huệ, tu tức là học, hay học tức là tu, bởi tại hành mà , sanh ra học. Tu học định-huệ là do giới y-bát Khất-Sĩ, như vậy là trong tiếng Khất-Sĩ, đủ gồm cả Giới, Định, Huệ, có giới hạnh mới được làm Khất-Sĩ, nên trước khi vào đạo cũng phải học giới và tu tập cho thuộc nhuần, chỉ có giới-luật là bằng văn-tự, bằng sự học nơi bề ngoài, tiếng tăm hình sắc mà thôi. Bởi vậy, cho nên từ xưa đệ-tử Phật quá đông, lắm kẻ không gặp, nghe giảng dạy, chỉ được có điều giữ giới, hành theo tứ-y-pháp của y-bát, sống thanh-khiết về ăn mặc ở bịnh, như vậy là được ở trong cảnh thật rồi, lần hồi suy-nghiệm tìm hiểu nơi giáo-lý của mình, mà mãi lo tịnh dưỡng an nhiên, nên lâu ngày cũng đắc đạo. Chứng quả A-La-Hán như Phật được.
          Thế nên lời Phật dạy rằng: Trong giới có chứa sẵn định huệ đạo quả rồi, trong luật có chứa sẵn kinh-luận rồi, như vậy thì quả linh vào đạo-lý đã là có sẵn trong y-bát đó rồi, dầu Phật không nói ra, chớ kẻ nào hành y và chú tâm nhận xét thì sẽ được học ngay, cũng cầm bằng như là đã được ngồi gần bên Phật, và được hiểu cả tâm trí của Phật, như thế nghĩa là: Bao nhiêu giáo-lý pháp-bảo kho-tàng của võ-trụ, đều đã để sẵn trong y-bát hai tiếng Khất-Sĩ cả rồi, kẻ nào sáng trí định tâm bươi ra, là dùng xài mãi mãi, khỏi đợi phải ai truyền dạy, điều ấy để chỉ rằng: Kẻ nào giữ y-bát theo giới luật lâu đời mà không thối chuyển, thì sẽ lần hồi đắc-đạo. Nhưng lại dễ gì mà không thối-chuyển sa-ngã, nếu kẻ ăn cơm chẳng biết mùi vị, vậy nên chỉ có người nào có trí biết phân biệt miếng ăn của mình, thì mới được yên tâm sống mãi, lớn lần kết-quả. Có y-bát không chưa đủ, vì nếu ta còn chen lấn nơi chỗ yêu ma náo nhiệt, thì tránh sao cho khỏi bị người cướp giựt, hoặc rớt bể rách tan. Bằng muốn bảo tồn y-bát, thì phải cần giữ-gìn giới-luật, có giới luật ngăn ranh ủng-hộ, ta mới được yên tịnh tự-do mà học hành tinh-tấn, ấy vậy, giới luật là y-bát chơn-truyền, kẻ nào giữ được mười giới, là sẽ được tập-sự đắp y ôm bát. Nhờ có được y-bát mới đến thẳng đường chơn lẽ thật, để sống đời an hưởng nơi cõi tự nhiên của tinh-thần bất diệt, ở cảnh vui tột cao siêu chơn phước. Thế nên những ai muốn được y-bát, thì phải tập học giữ-gìn giới hạnh, có đủ giới hạnh, mới được thọ trao giới luật y-bát, và cần phải nhờ thầy dạy thêm cho trúng cách tu theo định huệ, sau lại mới sẽ tự mình đi tới, đi tới chỗ ý muốn của tự mình.
___ Có những người tu, mà không cần đắp y phục Phật và mang bát, được vậy chăng?; There are people who practice, without wearing Buddha clothes and carrying bowls, are they reasonable?
___ Tu học lớp nào lại không được, miễn là cho vừa tới trình độ chí hướng tạm thời. Nhưng đối với quả giác của Phật thì ngoài cách y-bát ra, không thể đắc đạo được. Cũng có lắm cách tu luyện công phu, đắc thần-thông quả linh làm tiên trời, nhưng vì ở một chỗ thì không toàn giác được, vậy nên tuỳ theo sở chấp, kẻ thì thích tu học giới, để phát định huệ, kẻ thi tu học định để phát giới huệ, kẻ thì tu học huệ để phát định giới, sở chấp nào buổi đầu cũng được cả, nhưng khi đến đủ cả ba rồi, thì ai ai cũng y-bát ta-bà như nhau, còn kẻ nào đi ngay giới định huệ đều đủ một lượt, thì y-bát phải có mới được. Nếu kẻ tu không y-bát thì dầu cao giỏi bậc gì, cũng không thành Phật, không thể gọi Phật, bởi đạo Phật là trung-đạo, vừa vừa, chớ không cao thái quá như bậc Trời vô-sắc, chính sự hay giỏi của thái quá bất-cập là nguyên nhân khổ bởi không thường, cho nên đạo Phật tuy thấp hơn Tiên, ở bậc trung mà gọi là đạo chơn-thường giác-ngộ, đạo của võ-trụ càn-khôn, đạo của chúng-sanh người trí. Vả lại Giới Định, Huệ, là chân, mình, đầu của một thân hình cái sống, thiếu một là chưa đủ, nên dầu ai có chấp trước đoạn nào, chớ sau rồi cũng nhìn ra cả thể như nhau, cho nên gọi rằng: Đạo y-bát giác-ngộ của Giới Định Huệ là đạo của tất cả, kêu là rún đạo, đạo cái, ai-ai có đi quanh-quẩn đâu-đâu rồi cũng đến đó mà thôi.
        Làm sao cho hiểu được mùi vị y-bát, cho kẻ trước khi vào đạo?

Hãy nghiên cứu: ; Please research:
1.- Vũ-trụ quan; Cosmic view
2.- Ngũ Uẩn; The Five Aggregates
3.- Lục căn; Six roots
4.- Thập nhị Nhân duyên ; The Twelve Causes and conditions
5.- Bát Chánh Đạo The Eightfold Path
6.- Có và Không? Yes and No?
7.- Sanh và Tử Birth and death
8.-
 Nhân-sinh quan: Nam và Nữ ; Human-life perspective: Male and Female. ✖
(Tức là quan niệm về nhân sinh hay còn gọi là "nhân sinh quan" ; That is, the concept of human life or "human life view". )
9.- Chánh đẳng Chánh giác ; Perfect Enlightenment
10.- Công lý Vũ trụ Justice of the Universe.; 
Có nghiên cứu mười quyển sách Chơn Lý ấy trước đã, thì tất hiểu "đạo", sau đó hãy hiểu Chơn Lý:; If you study the ten books of Truth, then you will understand "the Way" first, then understand the Truth:
____ Khất Sĩ; Mendicant; Áo cà sa và bình bát chơn truyền; Traditional robes and bowls; Luật Khất sĩ; The Law of Mendicants; Giới-bổn (Tăng, Ni và Phật tử); Precepts (Monks, Nuns and Buddhists); Ăn chayVegetarian; Nhập Thiền ĐịnhEnter Meditation; Và giới luậtđịnh thiền và trí huệ v.v...; And precepts, meditation and wisdom , etc.
___ Có người lại nói: tự mình làm ăn lo tu cho mình là quí hơn phải chăng?; Some people say: is it more valuable to do business for yourself?; Có người lại nói: tu là tốt mà phải tự nuôi sống, chớ sao lại bắt người khác nuôi ?; Some people say: cultivation is good, but you have to feed yourself, why don't you force others to feed you?
____ Nói vậy, mới nghe qua cũng cho là được, bằng xét kỹ lại sái lắm, nào có ai thật hành lời nói đó trong đời?;  Having said that, I think it's okay to just listen to it, but if you look closely it's wrong, has anyone really practiced that word in life?; Nếu tự mình làm ăn thì tập thêm tham sân si dốt nát, độc ác khổ hại, chớ có học tu được cái chi mà gọi là quí,cái quí là không có độc, độc là riêng một mình, câu nói đó tham lam nhỏ hẹp, ích-kỷ, bỏn-sẻn, vô-đạo, biếng nhác, sợ hao công, không muốn sống chung với ai, và không muốn cho ai nhờ cậy chi mình, câu nói đó của kẻ sái quấy, nói lời cùng túng ém lỗi vào trong, cũng vì lời nói đó lan rộng, mới có cõi ma đói nơi kia. Vả lại trong đời chúng-sanh đang sống chung cho nhau, ta đang nhờ nơi tất cả, nào có ai lo cho mình được mà không phải nhờ nơi kẻ khác, hoặc tài, hay pháp bố-thí cho nhau, sao ai lại nói là mình tự làm, nuôi lấy chẳng là dối. Chính một kẻ kia đang bắt cỏ cây thú người, đất nước lửa gió nuôi mình đó sao lại quên đi, còn giáo-lý Phật Trời ai đang ăn dùng đó, sao mãi nói tội-lỗi vong-ân tự-đắc được!
           Còn như nói phải tự nuôi sống chớ sao lại bắt người nuôi, nói như thế là phải cho sự hiểu lầm nói càng, chớ đâu có ai được như vậy. Kìa ông vua có đi cầy cấy đâu, vị quan có đi nhổ mạ đâu, người giàu-sang có đi giã-gạo đâu, kẻ quân sĩ có đi phát cỏ gặt hái đâu, người công, người thương có đi gieo mạ đâu…
            Vậy ta nên biết rằng: Lẽ sống chung tiến-hóa trong võ-trụ, chúng-sanh vạn-vật và các pháp đều sống cho nhau, trao đổi cho nhau, hoặc tài thí, hoặc pháp thí, kẻ giúp cho linh hồn, người giúp cho xác thịt, đó là đạo phận của tất cả, chớ nào có ai mà sống cho mình được.
            Lại nữa, Khất-Sĩ là kẻ thi hành Pháp-Thí, ban bố tinh-thần, tạo sự sống linh hồn cho muôn loại là người đạo-đức, hiền lương nết hạnh, quí giá cho đời biết mấy, gương đức-hạnh dạy đạo lý, chẳng kể công đòi lương, mà cơm dư ai hảo tâm đem cho thì ăn chớ không ép buộc rầy-rà. Khất-Sĩ hy-sinh chịu sống cực thân, để lo tô đắp nền đạo cho thế-gian, trang sức hạnh-phúc cho cõi đời, loài người mà có lòng nhơn, đang biết lẽ phải sống đó, là do từ đâu? Chén cơm áo mặc của người đang có kia, há chẳng phải là do ảnh-hưởng của đạo-đức sao? Vua quan đâu có ví với các nhà sư? Thế sao lại có người đi nói quấy không kiên gì luật pháp, là đạo-đức đang tôn kính trong đời.
____ Những người tu theo đạo Phật, mà không có Y phục Phật, có hại gì không? ; Those who practice Buddhism, without Buddhist clothing, is it harmful? 
____ Nếu không có y-bát hay là y-bát có mà không dùng, thì gọi là bậc Trời người đang tập học, nhìn xem Phật chứ chưa gọi đúng là người đã tu theo như Phật, vì Định, Huệ có là do giới, giới là y-bát giáo-lý Khất-Sĩ, nếu không y-bát thì đâu có giới cõi Phật, bằng mà giới của người chế ra, vầy khác, thì gọi đó là giới của Trời người thôi. Lại như quả A-La-Hán là ứng cúng, chữ ứng cúng chỉ có nơi người Khất-Sĩ chớ đâu có cho kẻ ở nhà, nếu không có y-bát thì đi xin không được, đâu có ai cho, đâu ra vẻ người Khất-Sĩ. Bằng kẻ đi xin mà có đồ vật, ắt phải mang tù rạc, chúng oán ghét vu phao ngờ vực, và nếu có đồ-đạc thì nào được đi xin, để đi các nơi gieo nhơn lành khắp cùng thiên-hạ. Vả lại một người mặc áo quần thì phải hai cái thay đổi, cái đang mặc cái cất giữ, giấc ngủ phải nhớ lo, và nếu vải nguyên tốt thì còn bị cắp trộm, lại e chúng giết hại thân mạng, như vậy thì làm sao cho có được định huệ, mà gọi là tu học giống như Phật, để thành Phật. Còn kẻ không quần áo, thì cũng không tiện việc tu học, đến như chén bát mà có nhiều là tư bổn gốc khổ bị hại, bằng không ngơ lại bối rối cũng lo âu phiền não (mà việc thế lại rách, bể, hư, bịnh, lo mãi có rồi đâu). Vậy nên giáo-lý của y-bát là trung-đạo Chánh-Đẳng Chánh-Giác vô thượng không hai, tức là đạo giải-thoát toàn-giác. Nếu không có dùng y-bát, thì chẳng dứt được cái khổ của ăn mặc, và có y-bát mới ra Khất-Sĩ mà giải-thoát luôn chỗ ở, thuốc men thì đời sống tinh-thần mới được hoàn-toàn cứu cánh, sự chết khổ mới sẽ dứt hết.
Tổ sư: Minh Đăng Quang ; Patriarch Minh Dang Quang
Thiền quán, hãy an tọa mà nhìn vào chữ vạn ! )
( Meditation, sit down and look at the word swastika! )
  • Trả lời Email; Reply an email: Bạn hãy vào cửa hàng trực tuyến Google Chrome: thêm chức năng Good. Word. Guide (có biểu tượng chữ D màu xanh); Go to the Google Chrome web store: add the Good Word Guide function (with a blue D icon):(Link : Cửa hàng trực tuyến Chrome ; Bôi-chọn 1 từ nào đó, bảng từ vựng xuất hiện.; Highlight-select a certain word, the vocabulary sheet appears.; Bấm vào "loa" sẽ nghe được giọng đọc tiếng Anh.Click on "speaker" to hear the English voice.; 
  • Link : Nàng Covid-19 ơi ! ; Link: Vấn đề nhạy cảm ; Sensitive issues - Next  Nhớ dùng với trang=> Học Từ Vựng.
Voc.
method
 
/'meθəd/  (n.)  ;
method /'meθəd/ (n.) a way of doing something, especially a systematic way; implies an orderly logical arrangement (usually in steps); một cách để làm một cái gì đó, đặc biệt là một cách có hệ thống; ngụ ý một sự sắp xếp hợp lý có trật tự (thường là theo từng bước); Synonyms: method acting; Từ đồng nghĩa: phương pháp hành động.
____ Nó sẽ thường trú trên thanh công cụ Chrome, biểu tượng tiện ích D (màu xanh). Bạn kích chuột vào nó một 
bảng sổ: sẽ xuất hiện, bạn gõ từ vựng tiếng Anh vào ô Define (Định nghĩa)...; Kích chuột vào Define; Tự điển của Good.Word.Guide sẽ xuất hiện...copy nội dung và chuyển dịch chúng sang Anh ngữ. Vấn đề là thông qua 1 câu định nghĩa ấy: tương ứng một từ nào? Bạn lại đối chiếu với bất cứ tự điển nào...tìm ra chúng, từ vựng tương ứng là gì ?
____ It will reside on the Chrome toolbar, the D (blue) extension icon. You click on it, and a window will appear, enter English words in the Define box...; Click on Define; The Good.Word.A guide dictionary will appear...copy the contents and translate them into English. The problem is though that one definition sentence: which one word corresponds to? You check with any dictionaries...find them out, what's the corresponding vocabulary?; Ex.; Vd.:
example/i'gzæmpəl/n.; (Noun); ví dụ; thí dụ; đồ mẫu; gương mẫu, mẫu mực; nêu gương-(xấu) (noun: example; plural noun: examples => exemplary to follow; gương mẫu noi theo);( tiếp vĩ ngữ---ary:...?!?...(---ary)
1. an item of information that is typical of a class or group:; một mục thông tin đặc trưng của một lớp hoặc nhóm:; This patient provides a typical example of the syndrome.; There is an example on page 10.
2. a representative form or pattern: I profited from his example.
3. something to be imitated.; một cái gì đó để được bắt chước. (đồ mẫu)
4. punishment intended as a warning to others:; hình phạt nhằm mục đích cảnh báo những người khác: (nêu gương-xấu); They decided to make an example of him.; Họ quyết định làm một nêu gương (xấu điển hình) về anh ấy.
5. an occurrence of something:; sự xuất hiện của một cái gì đó:; But there is always the famous example of the Smiths.; Nhưng luôn có một ví dụ nổi tiếng của Smiths.
6. a task performed or problem solved in order to develop skill or understanding:; một nhiệm vụ được thực hiện hoặc vấn đề được giải quyết để phát triển kỹ năng hoặc hiểu biết: (gương mẫu)You must work the examples at the end of each chapter in the textbook.; Bạn phải làm việc với các ví dụ ở cuối mỗi chương trong sách giáo khoa.
Động từ: 1. be illustrated or exemplified.; 1. được minh họa hoặc ví dụ; Ex: the extent of Allied naval support is exampled by the navigational specialists provided.; Ví dụ: mức độ hỗ trợ của hải quân Đồng minh do các chuyên gia hàng hải cung cấp. (to be example: mức độ)
PHẦN I ; PART I
Lời giới thiệu – H. Miller; Introduction – H. Miller
Lời tựa – A. Huxley; Preface – A. Huxley
Chương 1: Phần mở đầu – J. Krishnamurti
Chapter 1: The Prologue – J. Krishnamurti
Chương 2: Chúng ta đang tìm gì?
Chapter 2: What are we looking for?
Chương 3: Cá thể và xã hội
Chapter 3: Individuals and society
Chương 4: Tự tri 
Chapter 4: Self-knowledge
Chương 5: Hành động và ý tưởng
Chapter 5: Actions and Ideas
Chương 6: Tín ngưỡng
Chapter 6: Faith
Chương 7: Nỗ lực
Chapter 7: Effort
Chương 8 : Mâu thuẫn
Chapter 8: Conflict
Chương 9 : Bản ngã là gì?
Chapter 9: What is the ego?
Chương 10 : Sợ hãi
Chapter 10: Fear
Chương 11 : Đơn giản
Chapter 11: Simple
Chương 12: Trực-thức
Chapter 12: Direct-consciousness
Chương 13: Dục vọng
Chapter 13: Lust
Chương 14: Tương giao và cô lập
Chapter 14: Relationships and Isolation
Chương 15: Người tư tưởng và tư tưởng
Chapter 15: Thinkers and Thoughts
Chapter 16: Can thought solve our problems?
Ex.: Chapter 16: Can thought to solve* our problems?
Note*: To solve là hình thức nguyên mẫu của động từ chưa chia thì trong tiếng Anh, bao gồm: văn nói và văn viết.; Sau khi được phần mềm garmmarly.com,  đã gợi ý chỉnh sửa về việc "sai văn phạm" của nó thiếu "to"...một cách nói nhấn mạnh trong thực dụng về Anh ngữ. (Mà ngay cả Pháp ngữ hay vài ngôn ngữ khác cũng vậy...):( Ngữ điệu và cách phát âm lên giọng và hạ giọng trong 1 từ vựng hay trong một câu nói...Chúng ta đang nói về dấu nhấn trong phiên âm quốc tế.; Intonation and pronunciation raise and lower the voice in a word or in a sentence...We are talking about accent marks in international phonetic transcription.; Cấu trúc về các loại động từ khiếm-khuyết-modal verbs: "can, could, maybe, may and be allowed to" sau nó là động từ không có "to". Nhưng trong cụm từ "Tư tưởng có thể giải quyết"...thì nếu không có "to" là sai văn phạm: do từ Google dịch...copy và dán vào.; Do vậy kiểm chứng lại văn bản:; Link : Nguyên ngữ : The First and Last Freedoom. ; Một lý luận đưa ra thông tin, chúng ta nhận thông tin và kiểm chứng: Chương 16. CHAPTER 16 ’CAN THINKING SOLVE OUR PROBLEMS?’. ; Như vậy, việc đưa ra "sai văn phạm" là điều không đúng và chúng ta có thêm "to" trong văn nói "nhấn mạnh" thì cũng không sai. Cả hai cùng đúng. TÓM LẠI: phần mềm grammarly.com đưa ra, đồng ý hay không? Hoặc chọn "Dismiss-bỏ qua" là do chúng ta. Vai trò của phần mềm grammarly là "sự tương tác" trợ giúp chúng ta quyết định việc: đúng hay sai trong tiếng Anh.; The role of grammarly software is "interaction" to help us decide: right or wrong in English.
____ modal verbs: động từ phương thức: GRAMMAR; Danh từ 1. an auxiliary verb that expresses necessity or possibility. English modal verbs include must, shall, will, should, would, can, could, may, and might.; một động từ phụ thể hiện sự cần thiết hoặc khả năng. Các động từ phương thức tiếng Anh bao gồm must, shall, will, should, would, can, could, may, and might.
____  Link: (động từ phụ; thuật ngữ trợ động từ; auxiliary verb terms; auxiliary /ɔːɡˈzɪliəri/(adj.) là một thuật ngữ rất quan trọng trong cấu trúc câu, vì nó là thành phần của cấu trúc 12 thì trong tiếng Anh.
Grammarly: Những thứ cơ bản: The basics
Misspellings and grammatical errors can affect your credibility. The same goes for misused commas and other types of punctuation. Not only will Grammarly underline these issues in red, but it will also show you how to correctly write a sentence.
Lỗi chính tả và lỗi ngữ pháp có thể ảnh hưởng đến uy tín của bạn. Tương tự đối với dấu phẩy bị sử dụng sai và các loại dấu câu khác. Grammarly không chỉ gạch chân những vấn đề này bằng màu đỏ mà còn hướng dẫn bạn cách viết một câu chính xác.
Blue underlines indicate that Grammarly has spotted an unnecessarily wordy sentence. You'll find suggestions that can help you effortlessly revise a wordy sentence.
Gạch chân màu xanh lam cho biết Grammarly đã phát hiện ra một câu dài dòng không cần thiết. Bạn sẽ tìm thấy các gợi ý có thể giúp bạn sửa lại một câu dài một cách dễ dàng.
But wait...there's more?; Nhưng xin chờ chút nữa?
Grammarly Premium can give you very helpful feedback on your writing. Passive voice can be fixed by Grammarly, and it can handle classical word-choice mistakes. It can also help with inconsistencies such as switching between e-mail and email or the U.S.A. and the USA.
Grammarly Premium có thể cung cấp cho bạn phản hồi rất hữu ích về bài viết của bạn. Grammarly có thể sửa giọng bị động và nó có thể xử lý các lỗi chọn từ cổ điển. Nó cũng có thể giúp giải quyết những mâu thuẫn như chuyển đổi giữa e-mail và email hoặc Hoa Kỳ và Hoa Kỳ.
It can even help when you wanna refine ur slang or formality level. That's especially useful when writing for a broad audience ranging from businessmen to friends and family, don't you think? It'll inspect your vocabulary carefully and suggest the best word to make sure you don't have to analyze your writing too much.
Nó thậm chí có thể hữu ích khi bạn muốn tinh chỉnh tiếng lóng hoặc mức độ trang trọng của mình. Điều đó đặc biệt hữu ích khi viết cho nhiều đối tượng, từ doanh nhân đến bạn bè và gia đình, bạn có nghĩ vậy không? Nó sẽ kiểm tra từ vựng của bạn một cách cẩn thận và đề xuất từ ​​tốt nhất để đảm bảo (chắc chắn) bạn không phải phân tích bài viết của mình quá nhiều.
*&*
Chương 17: Tác dụng của tâm trí
Chapter 17: Effects of the mind
Chương 18: Tự lừa gạt
Chapter 18: Self-deception
Chương 19: Sinh hoạt vị ngã
Chapter 19: Self-centered life
Chương 20: Thời gian và biến chuyển
Chapter 20: Time and Change
Chapter 21: Power and Expression
Hình minh họa chọn "tiện ích: độ tương phản cao"; Illustration selects "utility: high contrast"
Độ tương phản cao
qrcode_blogger.googleusercontent.com; 
Chú thích: chức năng việc bôi chọn, để xuất hiện bảng sổ dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, hay ngược lại.
Note: the selection function, to appear the translation table from Vietnamese to English, or vice versa.
Chúng ta vào +> cửa hàng Chrome trực tuyến, chọn thêm tiện ích "Google dịch"; We go to the Chrome web store, choose to add the "Google translate" utility; (nhập cụm từ "Google translate" vào ô tìm kiếm trong cửa hàng; enter the phrase "Google translate " in the store search box); Và, mặc dù chúng ta dùng cổng trình duyệt "Cốc Cốc" của Việt Nam: vẫn thêm tiện ích "google dịch" vào thanh công cụ của Cốc Cốc.; And, even though we use the Vietnamese browser port "Coc Coc": still add the "google translate" utility to Coc Coc's toolbar.; Link : Sách Good Word Guide (pdf.);
Google Dịch
____ Đặc điểm văn phạm; Grammar features:
      Theo cấu trúc câu: chủ ngữ + động từ (vị ngữ)+ bổ túc từ; According to the sentence structure: subject + verb (predicate) + complement wordNói về sự hòa hợp của chủ ngữ và động từ chia thì.; Talk about the harmony of the subject and verb conjugation.Quy tắc: nếu chủ ngữ số nhiều thì động từ chia trong câu là số nhiều.; Rule: if the subject is plural, the verb in the sentence is plural.; Trong đó có sự ngoại lệ: một số từ số nhiều như: tất cả, mọi thứ...vv. "with a singular verb"; "với một động từ số ít."; (Theo như tự điển đã chú thích.As the dictionary noted.);(Tra tự điển Oxford Learner's Dictionaries, ta có như sau:; Looking up the dictionary, Oxford Learner's Dictionaries, we have the following:
___ 
(?).- 教 giáo ; buddhist teaching ; lời dạy của phật