Dharma Right Enlightenment
Chánh Pháp Giác Ngộ
Author: MINH DANG QUANG
Tác giả: MINH ĐĂNG QUANG
&&&
Lecture number 52 (fifty-two)
Bài giảng số 52 (năm mươi hai)
Link: Fear of Sin; RTT 32. Sợ Tội Lỗi
Thank you for sending to me, about this website: Mount Sinai
(By version, published in 1993; Theo phiên bản, xuất bản năm 1993)
Edited and translated into English, by - LE DUC HUYEN: self-study English.; Biên tập và dịch sang tiếng Anh, bởi - LÊ ĐỨC HUYẾN: tự học tiếng Anh.
(Page 779-793; Trang 779-793)
Thông báo nội bộ...Cụm từ mạt Pháp ghép với từ vựng thời kỳ thành ra cái gọi là "thời kỳ mạt pháp" mà Tổ sư MINH ĐĂNG QUANG từng nói ý "Pháp của Đức Phật nó không hưng thịnh hay đốn mạt, mà do người tu hành không đúng với Pháp Phật dạy" mà cho là "mạt pháp" nghĩa là Pháp của Phật là gì?
___ Với ý trên chúng ta sẽ luận bàn sau...nếu không cảnh giác thì đã là "thỏa hiệp" với đám vô-thần mà phá hoại đạo Phật.Hỏi: Bạn có biết về đạo lý căn bản của giáo Lý Phật giáo không?
Đáp: Đạo lý căn bản của giáo Lý Phật giáo được gọi là Tứ Diệu Đế, bao gồm:
1. Đức Phật: Tôn kính và tuân theo Đức Phật, tôn trọng và học tập các bài giảng của Ngài.
2. Đạo: Tuân theo đạo Phật, tránh các hành vi ác, thực hành các hành vi thiện, và cố gắng giải thoát khỏi vòng luân hồi.
3. Tăng: Tôn trọng và hỗ trợ các tăng sĩ, đóng góp cho các hoạt động tăng ni và giáo lý.
4. Pháp: Tôn trọng và học tập các kinh sách Phật giáo, cố gắng hiểu và áp dụng chúng vào cuộc sống hàng ngày.
HỎI: Nội dung căn bản để áp dụng giáo Lý Phật giáo là phải tự nguyện tham gia gọi là quy y: Phật, Pháp và Tăng (Ni sư). Thực hành ba điều là giới luật, thiền định và học tập để nâng cao trí tuệ. Vậy xin cho biết giới luật trong Phật giáo có vai trò quan trọng, như thế nào?
TRẢ LỜI: Giới luật trong Phật giáo có vai trò quan trọng và đóng góp vào việc xây dựng một cộng đồng tu tập đạo đức và đạt được giải thoát. Giới luật là một tập hợp các quy tắc và nguyên tắc mà người tu tập Phật giáo cam kết tuân thủ để sống một cuộc sống đạo đức và tối giản.
Vai trò của giới luật trong Phật giáo bao gồm:
1. Hướng dẫn đạo đức: Giới luật cung cấp một bộ quy tắc và nguyên tắc để hướng dẫn người tu tập về cách sống một cuộc sống đạo đức. Nó định rõ những hành vi đúng và sai, giúp người tu tập tránh những hành vi gây hại và thực hiện những hành vi có ích cho bản thân và xã hội.
2. Tạo điều kiện cho sự tự giác: Giới luật tạo ra một môi trường và điều kiện để người tu tập tự giác và tự quyết định tuân thủ các quy tắc và nguyên tắc. Nó không ép buộc, mà tạo ra một cơ hội cho người tu tập thực hành tự nguyện và tự chịu trách nhiệm với hành động của mình.
3. Bảo vệ và duy trì trật tự: Giới luật giúp bảo vệ và duy trì trật tự trong cộng đồng tu tập. Nó định rõ những hành vi không được chấp nhận và áp dụng các biện pháp để giữ gìn trật tự và sự tôn trọng trong cộng đồng.
4. Tạo điều kiện cho sự phát triển: Giới luật cung cấp một nền tảng vững chắc để người tu tập phát triển và tiến bộ trong việc tu tập. Nó tạo ra một cấu trúc và hướng dẫn cho việc thực hành thiền định, học tập và nâng cao trí tuệ.
Tóm lại, giới luật trong Phật giáo có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn đạo đức, tạo điều kiện cho sự tự giác, bảo vệ và duy trì trật tự, cũng như tạo điều kiện cho sự phát triển của người tu tập.
GHI CHÚ: Giới luật hay nói rộng là pháp luật có ra do người có tội hay người có tội có ra là do luật pháp nói rộng và giới luật là phạm vi nội bộ của Phật pháp. Ý nầy Tổ sư đã đề cập và khẳng định, như thế nào?
*&* Hỏi: cho biết thêm về ý nghĩa của nội dung về khổ, tập, diệt và đạo trong Tứ Diệu Đế, hay nói cách khác bốn đề mục nầy là như thế nào?
Đáp: Trong Tứ Diệu Đế, các đề mục "khổ", "tập", "diệt" và "đạo" đều có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện triết lý và tư tưởng của tác giả. Dưới đây là ý nghĩa của từng đề mục:
1. Khổ (苦): Đây là khái niệm về sự khổ đau và gian khổ trong cuộc sống. Tác giả cho rằng sự khổ đau là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, và nó có thể giúp con người trưởng thành và hiểu rõ hơn về bản thân và thế giới xung quanh. Khổ cũng được coi là một cách để rèn luyện ý chí và sự kiên nhẫn.
2. Tập (悟): Tập là quá trình tỉnh thức và nhận thức sự thật. Tác giả cho rằng, thông qua việc tập trung vào sự thật và tỉnh thức, con người có thể đạt được sự giác ngộ và hiểu rõ hơn về bản chất của cuộc sống và thế giới. Tập cũng được coi là một cách để đạt được sự giải thoát và an lạc.
3. Diệt (滅): Diệt đề cập đến việc loại bỏ những khái niệm và ý thức sai lầm, và giải thoát khỏi sự gắn kết và áp đặt của tâm trí. Tác giả cho rằng, chỉ khi loại bỏ những ý thức sai lầm và giải thoát khỏi sự gắn kết của tâm trí, con người mới có thể đạt được sự tự do và an lạc.
4. Đạo (道): Đạo đề cập đến con đường của sự giác ngộ và giải thoát. Tác giả cho rằng, con người cần tuân thủ đạo để đạt được sự giác ngộ và giải thoát khỏi sự gắn kết của tâm trí. Đạo cũng được coi là một nguyên tắc chỉ dẫn cho cuộc sống và hành trình tìm kiếm ý nghĩa của con người.
TÓM LẠI: Trong Tứ Diệu Đế, khổ, tập, diệt và đạo là bốn đề mục quan trọng để đạt được sự giải thoát và trở thành người có đạo đức tốt.
a. Khổ đau được coi là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, và nó được coi là cơ hội để trưởng thành và học hỏi.
b. Tập là việc rèn luyện và cải thiện bản thân thông qua việc tuân thủ các nguyên tắc đạo đức và hành động đúng đắn.
c. Diệt là việc loại bỏ những ý niệm sai lầm và cảm xúc tiêu cực, giúp tâm trí được thanh tịnh và tinh khiết.
d. Đạo là nguyên tắc và giá trị đạo đức cơ bản, được coi là con đường dẫn đến sự giải thoát và hạnh phúc cuối cùng.
Tất cả bốn đề mục này đều liên quan đến việc phát triển đạo đức và trở thành một người có đạo đức tốt, và chúng được coi là những bước cần thiết để đạt được sự giải thoát và hạnh phúc cuối cùng.
__ KẾT THÚC: Con người sẽ trãi qua quy luật là sinh, lão, bệnh và tử. Lúc đó con người có quyền "xin được một cái chết sướng" là sự kết thúc của một kiếp người về một sự chấp nhận, hài lòng và viên mãn. Vì sau khi chết con người sẽ đi vào nghiệp lực, nên việc không còn sự "luân hồi và sinh tử" là điều khó mà biết trước.
Câu hỏi còn lại là có ai muốn được giải thoát cõi sinh tử và luân hồi không?
Trân trọng,
LÊ ĐỨC HUYẾN.
*&*
Phật Pháp là giác chánh, pháp bảo của Phật trong Tứ diệu đề, do Tứ diệu đề sanh ra.; The Buddhadharma is the main enlightenment, the Buddha's Dharma treasure in the Four Noble Truths, born of the Four Noble Truths.; Chánh giác của lời thuyết pháp là tiếng trống, Tứ diệu đề là cái dùi của trống, mặt đất cõi đời là như mặt của trống.; The right enlightenment of the teaching of the Dharma is the sound of the drum, the Four Noble Truths are the awl of the drum, the earth of the world is like the face of the drum.; Bởi có mặt của cái trống, Phật mới chỉ ra dùi trống, khi dùi chạm mặt trống, mới phát sanh ra tiếng trống, tiếng ấy là Pháp của Chánh Giác.; Because of the presence of the drum, the new Buddha pointed out the drumstick, when it touched the drum, the drum sound was born, that sound is the Dharma of Right Enlightenment.; Còn chúng sanh là người nghe.; And sentient beings are listeners. ☑
Tứ diệu đề là khổ, tập, diệt, đạo. The Four Noble Truths are suffering practice, cessation, and the path. ☑
VOCA. cessation /,se'seiʃən/n.; noun: chấm dứt; cessation; 1. the stopping: The cessation of the thunder...; sự dừng lại: Sự chấm dứt của sấm sét...
Bởi chúng sanh sầu khổ, nên đức Phật, mới nói rằng: "Nầy là khổ, vấn đề, đề mục khổ, nầy nguyên nhân sanh ra khổ, là do nhân của tập, vấn đề là đề mục tập.; Because sentient beings suffer, the Buddha said: "This is suffering, the problem, the subject of suffering, this is the cause of suffering, the cause of the set, the problem is the subject of the set.; Nầy phép mà diệt sự khổ là diệt, vấn đề là đề mục: diệt.; This is the magic that destroys suffering, the problem is the subject: cessation.; Nầy là đạo diệt luân hồi khổ là: diệt, vấn đề là đề mục: đạo.; This is the path to the cessation of samsara suffering is: cessation, the problem is the subject: the path.; Đạo pháp là con đường đi mà sau khi diệt bỏ sự luân hồi của khổ.; The Dharma is the path that after the cessation of the cycle of suffering.; Diệt là diệt bỏ 12 nhân duyên tập của luân hồi.; Annihilation is the elimination of the 12 causes and conditions of samsara.; Tập là tập sanh tử của luân hồi, để chứa khổ; và khổ là khổ bởi nguyên nhân của tập mà luân hồi, vì không diệt bỏ đạo."; The set is the set of birth and death of samsara, to contain suffering; and suffering is suffering because of the cause of samsara, because it does not destroy the path." ☑
VOCA. samsara / səm'sɔrə/n.; luân hồi; 1. (Hinduism and Buddhism) the endless cycle of birth and suffering and death and rebirth.; (Ấn Độ giáo và Phật giáo) vòng sinh tử luân hồi bất tận.
Thế nên khổ, tập, diệt, và đạo, gọi là tứ diệu đề, bốn vấn đề, đề mục dùi trống, do đó mà sanh ra các pháp lý, tiếng tăm vang dội.; That is why suffering, practice, cessation, and the path are called the four wonderful topics, the four problems, the subject of the drumstick, and thus give birth to the dharmas and resounding fame.; Phật pháp là Chánh Giác, lý lẽ là giác ngộ chơn chánh, đối với cõi đời là cái mặt trống, để giảng dạy chúng sanh.; Buddhadharma is Right Enlightenment, reason is true enlightenment, for the world is a blank face, to teach sentient beings.; Chính đức Phật, là người gióng trống của Pháp lý: tiếng trống là pháp-lý âm, diệu âm, sư tử âm, hải triều âm v.v…; The Buddha himself is the one who plays the drum of the Dharma: the drum is the dharma sound, the wonderful sound, the lion sound, the sea tide sound, etc.; Tiếng trống có đủ ba lần chín lượt, tức là: ba thừa giáo lý, chín phẩm hạnh, tuyệt vời, huyền diệu.; The drum sound has three times and nine turns, that is: the three vehicles of doctrine, the nine virtues, the wonderful, the magical. ☑
Tứ diệu đề cũng là bốn cây tăm xe của bánh xe pháp lý.; The Four Noble Truths are also the four toothpicks of the legal wheel.; Pháp là bánh xe, tam thừa, cửu phẩm hạnh là ba vòng, chín lớp, từ nhỏ tới lớn.; Dharma is the wheel, the three vehicles, the nine virtues are three rounds, nine layers, from small to large.; Cõi đời là mặt đất, Phật là người lái, chuyển xoay, trụ cốt của bánh xe Chân-như, chúng sanh là kẻ khách bộ hành.; The world is the earth, Buddha is the driver, turning, pillar of the wheel of Truth-likeness, living beings are pedestrians.; Niết Bàn là thùng xe chở: chứa!; Nirvana is the tank that carries: contains!; Phật dùng đó mà đưa rước kẻ khách, là chúng sanh, gọi là: từ Đông sang Tây, đến nơi Cực Lạc.; The Buddha used that to bring guests, being sentient beings, called: from East to West, to the place of Ultimate Bliss.; Bởi có bánh xe mới có lăn, có cây tăm mới có chạy, nên gọi là trụ cốt của Chân-Như.; Because only the wheel can roll, only the toothpick can run, so it is called the pillar of Truth-Like.; Sự vận hành của bánh xe Pháp, đã phát sanh ra cây tăm, là Tứ diệu đề; tăm của xe sanh bánh xe Pháp của Chánh-Giác.; The operation of the Dharma wheel, which gave birth to the toothpick, is the Four Noble Truths; toothpick of the wheel of the wheel of Dharma of Right Enlightenment.; Do đó, mà chúng sanh có thể níu đeo theo bánh xe, bước lên tăm trèo lên trụ cốt, mà bước vào thùng xe Niết Bàn.; Therefore, sentient beings can cling to the wheel, step on the toothpick, climb up the pillar, and enter the vehicle of Nirvana.; Niết Bàn cứu độ là làm thùng xe, chỗ đựng chứa chúng sanh, rước đưa về nơi Cực Lạc, giải thoát khổ não và luân hồi của sinh tử.; Nirvana salvation is to make a cart, a place to store sentient beings, to bring them to the place of Ultimate Bliss, to liberate suffering and 'samsara' of birth and death.; Chính Niết Bàn thùng xe là thế giới Cực Lạc bên kia ấy rồi, sự cố gắng của Phật là như con bò, nguyện lực làm dây cương, roi là thúc giục tinh tấn, chăm chỉ là đi tới.; Nirvana itself is the other side of the world of Ultimate Bliss, the Buddha's efforts are like an ox, the vow force is the reins, the whip is the urge to be diligent, the hard work is to go forward. ☑
Vậy, thì đây ba vòng, chín lớp của bánh xe Pháp của Chánh Giác, từ xưa, ghi dấu trên đường đời, để lại…; So, here are the three turns, the nine layers of the Dharma wheel of Right Enlightenment, from the past, marking the path of life, leaving behind...; Nầy là BỐN XỨ NIỆM TƯỞNG: thân, bịnh, ý, và pháp.; These are the FOUR SITUATIONS OF CONCEPT: body, illness, mind, and dharma. ☑
1) Ta hằng có niệm tưởng đến thân, tìm xét thấy ra, thân là không có, thân có ra do nhơn duyên của tứ đại mà tạo thành, chớp bóng, huyễn hoặc, mơ hồ, thân là vô thường bởi thay đổi.; I always have thoughts about the body, find out, the body is not there, the body is created by the causes and conditions of the four elements, flashed, illusory, vague, the body is impermanent by change.; Thân của ta mà chẳng phải thân là chính ta, thân là một món đồ bằng đất, nước, lửa, gió: hiệp thành.; My body but not my own body, the body is an object made of earth, water, fire, and wind: union.; Kẻ mà như chết rồi nuôi cái sống, là món nầy hay món kia sớt chia, dồn qua cái nọ. Thân nầy là của tất cả, tất cả là của thân nầy, tiếng gọi "ta" là chung toàn thể, chẳng phải riêng tôi, thân có ra do những chất sống phối hợp, rồi đây nó sẽ rã ra, phối hợp cho những cái khác.; Mắt, tai, mũi, lưỡi, tay, chân, mình, bụng, màu sắc, cử động, có sống, có biết, có linh, là do ấm của lửa, lửa tắt đi rồi ; trơ lạnh, là sẽ chết ! Nó như một chiếc xe, trơn láng bên ngoài, bên trong là bộ máy, máy chạy là do "hơi" chuyền của trong bụng mẹ, từ đó quen "trớn"!; và có đủ chất nuôi, thì nó chạy mãi, lâu sau nó phải sét mòn tan rã, máy ngừng tắt lạnh.; Cái thân là một ổ: chúng sanh vi trùng!; Kết tụ và đang tranh đấu, mặt trận quân binh là yên ổn, một bên là hỗn "thắng", các loại khác đã "thua", thì bao nhiêu binh tướng kết thâu, sẽ phải rã tan hàng ngũ, thất lạc vô dụng. Cái thân là các pháp: hiệp hành; mà các pháp vốn tiếng là "vô chấp", tương đối, vốn chẳng có ta hay người, kết tập bởi nhân duyên, cái này hay cái kia sanh cái nọ, rồi sẽ từ nhân-duyên ấy, mà bị hoại diệt; cái nọ hay cái kia mà sanh ra cái khác. Thân là sắc ấm, là trung đạo, giữa hai pháp nóng lạnh dung hoà, do chất kết hợp, rồi sẽ do chất nóng lạnh bất hoà mà tan hoại. Thân là cái vỏ trái tạm để sanh ruột hột trí tâm, hột tâm còn thân vỏ mất. Thân là một cái cây sanh nhánh, lá, hoa, trái, hột, là nguồn cội sanh giáo lý các pháp, trí huệ, thân tâm kẻ khác. Thân là một cái nhà máy xay. Thân là một lỗ cống. Thân là một đống rác dơ. Thân là cái hũ đất. Thân là con quái vật. Thân là hầm địa ngục. Thân là một cái hang sâu, một cái hố độc. Thân là ngạ quỉ. Thân là kẻ hung thần. Thân cũng là đền vàng, lầu ngọc, núi châu, ao bạc. Nó lớn như biển hư vô, nó nhỏ như cây kim, như trống lỏng. Thân ích lợi như kim cương, thân tai hại thúi độc như phẩn, tiểu v.v...
Người ta nói nó là cái gì cũng được hết, nó cũng như mặt đất đựng chứa tất cả danh từ pháp lý đồ vật. Ai muốn dùng nó cách sao cũng được. Nhưng phải hiểu tánh nó là không bền, không phải là ta, cũng chẳng phải của ta làm chủ, chúng ta chẳng nên lầm quên, khổ não vô ích vì nó, chúng ta chớ nên cố chấp, thích ham, luyến ái, tự cao, để bảo giữ kế mưu, danh lợi, tốt xấu vì thân. Mà nên phải biết nhận ra cái ta chủ tể ở nơi thân. Cũng như kìa là một đống lửa, ta hãy tìm xét coi cái nguyên nhân, và cái kết quả lửa ấy là gì ? Và hiện tại lửa cháy là cháy cái chi ? Có nhận xét thấy sơ qua như thế, chúng ta sẽ giác ngộ rất nhiều, mà không còn ham mê trìu mến lạc lầm cái thân không bị cái thân, cái sắc, cái có huyễn hoặc che đậy tâm trí, mà tức nhận ra rằng: thân là không có, không có bền, nên gọi là không, thế là ta dứt được cái niệm thân, cái sở chấp thân, tâm ta sẽ trong sạch không không, như không còn biết thân là chi, do đó mà tinh thần của ta, đươc yên ổn mạnh cứng, gom hiệp.
2) Ta hằng có niệm tưởng đến bệnh : tìm xét thấy ra bịnh là không có ! Bởi có thân nên mới có bệnh. Khi ta có việc dùng thì cái thân có tạm, khi hết chẳng có việc dùng, thì cái thân không có. Trong lúc dùng thì ta giữ gìn để dùng, lúc hết chẳng dùng thì ta huỷ bỏ, cho nên có lúc nó cũng quý trọng, còn có lúc nó như thây ma, nó như mụt ghẻ. Nó ở với trẻ nhỏ, nó sẽ bỏ ông già. Các bệnh hoạn của thân là do từ bên trong phát ra, từ bên ngoài nhập vào. Bệnh hoạn là sự thái quá bất cập, cũng tự nơi ta, mà cũng từ nơi người. Người thiện có tu, bịnh ít hơn kẻ ác. Hễ có thân thì phải bệnh, dùng thân phải nuôi bệnh thân bỏ thì không kể bệnh. Bệnh như lỗ nước mội, như máy đồng hồ, người ta nói nuôi giữ bệnh, chứ chẳng ai gọi trừ dứt tuyệt bệnh. Bệnh không có hết. Trong đời chẳng có xác thân không bệnh. Một xác thân ở trong đời, là một nạn nhân trong giữa chiến tranh, là một món ăn của tất cả chúng sanh, là sự một may trong muôn rủi. Trẻ nhỏ dại nào cũng ham chơi tạo bệnh. Các tánh chất trong đời đều sanh bệnh. Các vi trùng đều làm bệnh. Các pháp tương đối thảy tập bệnh. Bệnh tại nhơn duyên, có thân có bệnh, thì không còn chi sung sướng tốt đẹp nên hay; các bịnh vẫn bằng nhau, không ai thương muốn bệnh. Vậy nên bệnh là không thường bền. Bệnh là không có, bệnh là ma biến huyễn thuật. Thân đã không, thì bệnh đâu có, thế là ta dứt được cái niệm bệnh, cái sở chấp bệnh, ta không còn sợ sệt bệnh. Bệnh không làm ta yếu ớt, ta sẽ lướt bệnh mà không coi bịnh là chi, vì ta nghĩ rằng : thân đâu có phải hết bệnh, mà thân là để nuôi tâm trí. Vậy tại sao ta chẳng xét nghĩ đến tâm trí mà lại lo bệnh. Vì tâm trí mà nuôi thân bệnh tạm, chớ phải nào ta có ra để nuôi bệnh nuôi thân. Một ngày kia ta toại nguyện, mục đích đến, trí đầy tâm đủ, thì thân phải bỏ, chừng đó bệnh có lo gì. Niệm tưởng như thế tức là tinh thần của ta sẽ hăng hái, can đảm, lướt lên, thành tựu, và thắng phục, dứt niệm bịnh.
3) Ta hằng có niệm tưởng đến ý: tìm xét thấy ý là không có. Bởi lầm chấp có sống nên sợ chết, có thân nên sợ mất, mà sanh ý. Bởi tưởng lầm thân ta, nên mới sợ già, sợ già do sợ bệnh mà sanh ra ý. Bởi mê vọng theo thân già bệnh chết, nên mới tập nói làm, có nói làm mới tập ý, ý có do mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng, thân. Ý là tham sân si. Ý là thái quá bất cập tương đối, không bền, không định, không chừng. Ý là tham sân si tam độc, mà cũng là giới định huệ, ba món quý. Ý có tốt, có xấu, có sạch, có dơ, có lớn, có nhỏ, ý là cái sở chấp, cái tư tưởng, cái thọ cảm điên đảo theo tình vọng. Ý là không có. Ý là tên gọi. Ý là huyễn ma. Trước hết nơi đứa bé ý phát sinh ra do bệnh. Vậy thì thân bệnh đã không, thì ý đâu gọi có. Thân bệnh chẳng ở mãi với đời, thì đời đâu có chỗ nào giữ ý, như thế thì còn ý là còn khổ, hết ý là hết khổ. Cái khổ là vô lý, thì cái ý ấy tức là bậy. Ý là ma, ý là giặc, ý là bệnh của tâm, là vi trùng chất độc pháp ác của tâm, nhưng ý cũng là ông thầy hướng đạo dắt dẫn chúng sanh đến nơi cao quý, hoặc đến chốn địa ngục a tỳ. Ý là cảm giác tưởng tượng, chẳng có xét suy, vốn không thông sáng, ý do tương đối, tương đối là bệnh, nên gọi ý do bệnh. Vậy thì thân không, bệnh không, là ý cũng vốn không, trước đã không có ý, sau đây cũng đâu còn ý. Ý là trình độ tạm, khi đến trí giác thì ý không còn, ý phát sanh nơi tư tưởng của thú, ý tập hành vi loài người, đến trời thức trí thì ý chết co, đến Phật thì mất tích. Như thế thì đối với lẽ tấn hoá; ý sẽ không tồn tại, nên chẳng gọi là có.
Trẻ nhỏ là sanh ý, người lớn là còn ý. Ông già thì hết ý. Vậy nên kẻ muốn tấn hoá giải thoát vượt lên, là không còn bảo thủ ý, người ta sẽ bỏ quên dứt mất luôn, ví như ăn cơm vào bụng rồi hoá thành phân, và sẽ bỏ luôn, không còn nhớ nó. Nhờ niệm tưởng như thế, tức là tinh thần của ta sẽ được tự nhiên dõng mãnh, nghị lực cứng cõi im lặng, dứt được niệm ý tiêu tan, không còn chấp ý.
4) Ta hằng có niệm tưởng đến pháp : pháp là phép, phương pháp, phương tiện. Phương pháp là cái thuật, mà pháp cũng là chánh giác, thiện xảo, pháp có ác có thiện. Có pháp trong sạch chơn như : pháp là giáo lý ánh sáng trí tuệ, của thức trí, của trí si, pháp là kinh nghiệm, là lý luận, luận thuyết, chỉ giải, hướng dẫn, pháp là luật pháp, điều luật, qui tắc, lễ phép, phép tắc pháp có ra do ý, còn ý còn pháp, hết ý hết pháp, không ý là im lặng tự nhiên vắng lặng, đâu còn pháp, pháp là huyễn là dối, là danh từ tạm, ví như đồ xài, ngón tay chỉ, chiếc bè đưa, chiếc xe chạy hết việc rồi là sẽ bỏ, nhờ pháp mà trí huệ sẽ đủ đầy, thì chơn như trơ sựng tự nhiên, hết học hết pháp. Pháp là cái học, học qua rồi thì bỏ, chỉ được cho người cái giác biết. Bởi có thân, có bịnh, có ý, mới có pháp. Mà thân là trước sau chẳng có, thì đâu có cái bịnh, không bệnh thì làm sao có ý, không ý thì lấy gì làm pháp. Thế thì pháp là huyễn ma. Cả thảy thân, bệnh, ý, pháp, là huyễn ma. Các cái ấy nó tạo lần cái ta, khi cái ta đã thành tựu.; These things create the self, when the self has been achieved.; Thì bốn cái ấy tiêu hình, cũng giống như tứ đại đất, nước, lửa, gió, kết hợp thành thân, sau này người ta chỉ biết thân.; Then these four disappear, just like the four great elements of earth, water, fire, and wind, combined into a body, later people only know the body.
Chớ không biết đến đất, nước, lửa, gió.; Do not be ignorant of earth, water, fire, or wind.; Ta đây là chân-như, là định, là vũ trụ, chân thật như nhiên, không vọng động, là cái lẽ sống, biết linh, và tự nhiên, chớ không phải có cái chi làm cái ta.; I am the true-likeness, the concentration, the universe, the truth as natural, the unmoved, the reason for living, knowing the spirit, and the natural, not having anything as a self.; Cái ta ấy là cái thật, cái thưòng bền.; That self is the real, the permanent.; Cái mà tất cả chúng sanh là có một.; That which all sentient beings are one.; Còn thân, bệnh, ý và pháp là giả dối, và láo xược!; But body, disease, mind and dharma are deceitful, and insolent!
He virtue of moral integrity who reverence
Nguyện đem chơn lý độ sanh tồn
Vows bring truth to salvation beings exist
Bồ đề an toạ ban mưa Pháp
Bodhi seated to proclaim, rain-sprinkled Dharma
Bồ tát y hành: hạnh Thế-Tôn
Bodhisattva's practice: the World-Honored One's conduct
(Hình minh hoạ, nơi giữa trang 784 & 785)
Vậy thì thân, bệnh-ý, sanh pháp, còn pháp là còn thân, bệnh, và ý.; Then the body, the disease-mind, gives birth to the dharma, and the dharma is still the body, the disease, and the mind.; Sẽ hết: pháp, tức là hết ý, bệnh, thân.; Will end: dharma, ie the end of mind, illness, and body.; Còn thì còn khổ não, hết, là hết khổ não rối loạn, pháp là cái chấp, pháp là tương đối, và pháp là tiến hóa.; There is still suffering, the end, the end of suffering and confusion, the dharma is the attachment, the dharma is relative, and the dharma is evolution.; Pháp là vô thường, pháp là không có ta nhứt định, không của ta cái có, chẳng của người ở đâu.; Dharma is impermanent, dharma is not to have a certain me, not mine what has, not where you are. ☑
Pháp tà là pháp khổ, pháp chánh là pháp vui. Pháp chánh là trung đạo giải thoát, pháp tà là biên kiến bên lề, ứ nê té sụp. Nên gọi pháp chánh là pháp sống, pháp thông lưu, pháp bình yên ích lợi báu quý hơn tà pháp, nhưng cũng thảy đều là tạm. Pháp vốn không gốc tánh, không sở trụ, không căn bổn, vì nó là biến thuật, ẩn hiện không lường, không bờ bến, mỗi lúc tự nhiên, bình thường thì không có, khi gặp việc nó mới xuất lộ ra, nên gọi là không có pháp, và pháp không có chỗ ở, chỗ chứa giữ. Nhờ niệm tưởng như thế mà tâm định, lấy định làm tâm, không còn chấp lầm nơi pháp phải khổ, không còn bị pháp mê hoặc, che đậy, làm mất cái tánh chân vũ trụ bình thường. Thì con người mới tự chủ, sẽ thấy đặng cái ta, cái sống, biết, linh, thành tựu, ấy mới gọi là bản lãnh, là vô năng sở, thì không cái chi hơn. Giải thoát đến cái pháp tức là giải thoát hoàn toàn. Cái tâm như thế mới phải thật gọi là kim cương, thời gian không làm núng, chúng sanh, vạn vật, các pháp, chẳng chuyển lay. Ấy mới gọi đúng là tinh thần siêu việt. Thế là dứt đặng niệm pháp, không còn chấp pháp.
Vậy thì niệm thân, niệm bệnh, niệm ý, niệm pháp, là bốn cái niệm, bốn sứ sở bên lề, bốn phía, bốn cõi đọa lạc, như bốn tay chân, không phải là chỗ ở của cái ta, nó là bốn cảnh huyễn ma mà ta phải tránh xa, phải thấy ra, để đặng dứt trừ tiêu diệt, không nên quyến luyến, nhớ tưởng, cố chấp, thì tâm mới lớn yên, trí mới rông sáng.
Sự dứt đoạn niệm thân, dứt đoạn niệm bệnh, dứt đoạn niệm ý, dứt đoạn niệm pháp, tức là BỔN DỨT ĐOẠN. Dứt đoạn bốn vách nhốt ngăn, dứt đoạn bốn dây trăn trói, dứt đoạn địa ngục hắc ám phủ che, dứt đoạn sự hành hà tâm trí, do đó con người hoàn toàn giải thoát, sống trong cõi chơn như đại định, vũ trụ bao la, không chi ngăn ngại. Nhờ vậy mà phát sanh ra BỐN THẦN THÔNG:
1.— Bởi không còn cái sắc, cái thân, cái có, che đậy, nên mắt trí của tâm ta thấy xa thông suốt, cõi đời, chúng sanh, vạn vật các pháp. Và nhờ đứt đoạn bốn niệm, tâm hằng định, tinh thần đầy đủ, sức linh thành tựu, điện lực càng thâu, nên đắc được mắt trời, mắt thần, mắt pháp, mắt huệ, mắt đạo, chứng tại nơi mắt thịt là chánh tín.
2.—Bởi dứt đoạn bệnh tương đối, thái hóa bất cập không còn bị sự chuyền níu bên lề bệnh cản ngăn, nên tai trí của tâm ta, nghe xa thông suốt cõi đời, chúng sanhh vạn vật các pháp. Và nhờ dứt được bốn niệm, tâm hằng định, tinh thần đầy đủ, sức linh thành tựu, điện lực càng thâu, nên đắc được tại trời, tai thần, tai pháp, tai huệ, tai đạo, chứng tại nơi tai thịt là chánh niệm.
3.—Bởi dứt đoạn ý, chuyền leo phiền não, không còn bị sự hành phạt dắt dẫn, xa khác hẳn với thế gian, nên trí phân biệt của tâm ta nhận ra hiểu rõ tâm lý của chúng sanh, muôn loài vạn vật, các pháp; hiểu rõ chỗ thấy hiểu của tất cả, do nhờ trong chỗ định, mà thấy ra nơi ngoài chỗ loạn; ở trong chỗ kín, trong chỗ khuất bóng tối, mà thấy ra ngoài chỗ trống hở, chỗ ánh sáng. Và sự kín đáo của tâm ấy tức là dứt đoạn được bốn niệm, thì con người sẽ trở nên kỳ bí siêu hình, vô vi huyền diệu, ẩn mật kín đáo, chân như che chở, ấm khuất diệu mầu, tâm hằng định, tinh thần đầy đủ, sức linh thành tựu, điện lực càng thâu, nên đắc được cái mũi hửi, biết hết tâm ý của muôn loài, không chi ngăn ngại ! Đó là mũi trời, mũi thần, mũi pháp, mũi huệ, mũi đạo, chứng tại mũi thịt là chánh tinh tấn, mùi chi trong ngoài hết thảy cái chi cũng biết.
4.—Bởi dứt đoạn pháp ngăn che nghi hoặc, cố chấp, không còn bị sự níu kéo nặng nề dính buộc, khác với phàm phu tríu lụy : nên trí được huệ, cắt đứt mạnh mẽ, phủi dứt nhẹ nhàng, cao thượng không không, xa bay theo nhân duyên mây gió, vượt hẳn các pháp chúng sanh vạn vật. Và nhờ đứt đoạn được trọn bốn niệm, tâm hằng định, tinh thần đầy đủ, sức linh thành tựu, điện lực càng thâu, nên đắc lưỡi trời, lưỡi thần, lưỡi pháp, lưỡi huệ, lưỡi đạo, chứng tại nơi lưỡi thịt, là trì giới, đem thân mạng bay cao, bay xa biến mau, do lời nói thần lực bên trong kín đáo sức mạnh.
Bốn thần thông nầy : thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông (hay thiên tỷ thông), thần túc thông (hay thiên thiệt thông) có ra là do bốn cái dứt đoạn, trừ được bốn xứ niệm, mà tâm định yên trụ chính giữa, gom thần góp điện, hiệp sức của bốn phương mà thành.
___________@*&*@___________