Thứ Bảy, 8 tháng 4, 2023

RTT10. Công lý Võ trụ; Justice Martial Universe

Đề tài: giảng luận số 10 (mười)
Topic: lecture number 10 (ten)
Công lý Võ trụ 
Justice Martial Universe
Tác giả: MINH ĐĂNG QUANG 
Author: MINH DANG QUANG
&&
Theo phiên bản, xuất bản năm 1993; By version, published in 1993; Hiệu chỉnh và dịch sang Anh ngữ, học trò nầy: tự học tiếng Anh-LÊ ĐỨC HUYẾN; Editing and translating into English, this student: self-study English-LE DUC HUYEN; (Trang 147; Page 163)
Mọi người bình đẳng với luật-giới,
Everyone is equal to the precepts,
Do người tội, pháp luật thành lời.
By sinners, the law becomes the word.
Ấy là phương pháp cứu độ đời,
This is the way to save lives.; Ủng hộ người thiện khắp nơi nơi,; Support good people everywhere,; Trị phạt người ác; ơi Công Lý!; Punish the wicked; Oh Justice!
I.— Công lý là CHƠN LÝ;
Justice is TRUTH
Chơn ngôn và pháp ấn-tâm, là lời truyền khẩu.; Mantras and dharma-minds, are oral traditions.; Một cách nói mà nhớ mãi không quên, gọi là "truyền tâm-ấn".; A way of saying that remembers and doesn't forget is called "mind-impression transmission".Truyền thống cổ xưa, là mọi chơn ngôn, đều có thể biến thành luận lý.; Ancient tradition, which is all mantras, can be turned into logic.; Chơn ngôn tức là nguyên ngôn của luận lý, nó chính là Nguồn Đạo Lý.; Mantra is the original language of logic, it is the Source of Morality.; Công lý là Chơn Lý, hay luận lý chánh đẳng chánh giác, con đường trung đạo, dung hòa của võ trụ.; Justice is the Truth, or the logic of righteous enlightenment, the middle way, the harmony of the universe.; Công lý nghĩa không thêm, không bớt, bằng nhau, đạo lý rất công bằng, không chênh lệch, thiên tư, về mặt nào.; Justice means no more, no less, equal, morality is very fair, not disparate, biased, in any way.; Thể thức của công lý là sự vô lượng vô biên, và không cố chấp vô cực.; The form of justice is boundless immeasurable, and not obstinately infinite.Tính chất của công lý là hình thể của vạn vật, các căn bản.; The nature of justice is the form of all things, the bases.; Dụng cụ của công lý là luật pháp, giáo lý tương đối tiến hóa.; The instrument of justice is the law, the doctrine of relativistic evolution.; Pháp-lý của công lý là tự nhiên vắng lặng, bằng thẳng và mát mẻ.; The jurisprudence of justice is naturally quiet, straight, and cool. ☑
II.— Công lý của quả địa cầu; Justice of the globe
       Cũng như quả địa cầu, để trên một đĩa cái cân to lớn, phía bên nầy, và đĩa cái cân bên kia, thì để một quả tạ khổng lồ, hai cái bằng nhau, trong muôn đời kiếp.; Just like the globe, on a plate of great scales, on one side, and a scale on the other, a giant dumbbell, two equal, for all eternity.; Từ Thành tựu cho đến Hoại không, từ sanh cho đến diệt, nó cũng vẫn bằng ngang nhau, không thấp, cao, nhẹ hay nặng chút nào. ; From Accomplishment to Dissolution, from birth to death, it is still the same, not low, high, light or heavy at all.; Cũng như đất, nước, lửa, gió ở trong quả địa cầu, mặc dầu có sự thay đổi lăn xoay, nhưng không bao giờ mất đi một tí, mà lại vẫn bằng nhau.; Just like the earth, water, fire, and wind in the globe, although there are rolling changes, but never lose a bit, but remain the same.
      Mỗi quả địa cầu có bốn phần nước (ba phần núi và một phần đất), bốn phần gió, bốn phần lửa: không bao giờ hơn kém nhau và sẵn có ở nơi nhau.; Each globe has four parts water (three parts mountain and one part earth), four parts wind, four parts fire: never more or less different and available in each other.; Cũng như chúng sanh, vạn vật và các pháp lý, bao giờ cũng là một. ; Like sentient beings, all things and dharmas are always one.; Một thể thức sống ở trong nhau, không dư và không thiếu, mà trái lại: sự ẩn mật và hiện diện của nó lại chẳng đồng đều.; A mode of living in each other, not redundant and not lacking, but on the contrary: its secrecy and presence are unequal.; Hoặc đã có, hoặc là đang có, hoặc chưa có, tức là cái có đó đã có đó tự bao giờ rồi ! ; Either there is, or it is, or it hasn't, that is, that which has been there ever since!; Không có đầu, có đuôi và chính giữa, nên gọi là thể thức của Chân-Như : một chừng mực ! ; There is no head, there is a tail and the middle, so it is called the form of Truth-Like: a measure!
         Cũng như quá khứ vị lai, và hiện tại vốn dĩ không phân biệt, vẫn là trong mỗi lúc đều có đầy đủ cả thảy. Xưa và nay có một; "vọng động" hoặc thanh tịnh vốn dĩ không hai. Lý sự có đổi dời, bánh xe lăn xoay có lui tới, có khổ có vui, có sống có chết, có giặc giã, có thái bình, nhưng trong nầy có kia, trong kia có nầy, từ tinh thần vật chất, thân tâm, ta người, hôm nay và ngày mai, thảy đều có chứa đựng lẫn nhau, cho đến trong mỗi lời nói, mỗi việc làm, mỗi ý niệm, cũng đều có chứa đủ cả các pháp tương đối khác, cho nên gọi là đạo lý công bằng, không bỏ sót điều chi mảy may. Cũng như niết bàn, thiên đường nhơn loại, A tu la, súc sanh ngạ quỷ địa ngục, cảnh giới nào cũng có đủ hết, ai cũng vẫn chứa mang những cái kia, tức là một thể sống điều hòa, không cho ta thiên vị sa ngã. Do công lý đó, tạo cho tâm hồn ta sự giác ngộ lý lẽ của "chân như", như nhiên, như thường, như vậy, như như, sao cũng được, sao cũng xong, sao là sao…; sự bất chấp, công bằng, tha thứ đứng vững, tức là từ bi hỷ xả và bình đẳng vậy.
III.— Công lý Nhà Phật; Buddha's Justice
       Công lý tức là tự nhiên, dầu thưởng phạt hay không thuởng phạt, dầu trị lập hay không trị lập, trong mỗi lúc công lý đều có chứa sẵn, cái tương đối để giác ngộ, dạy dỗ chỉ rõ bày, chậm mau gì ai cũng được học. Cho nên chúng sanh gọi là công lý pháp, hay là giáo lý, để đưa người đến nơi toàn giác, là sự biết sáng suốt hết mê lầm, thì mới chịu giải thoát đứng yên nghỉ mệt, cũng như cây trụ cốt cân, nơi chính giữa thăng bằng đứng sựng. Bởi công lý trùm khắp tất cả nên gọi là cõi đời, dầu lúc nào cũng là Phật quốc tịnh độ, cho người giác ngộ, an dưỡng nghỉ ngơi vắng lặng. Người hiểu công lý rồi, thì tâm định, được hưởng quả yên vui, cái ta chắc chắn, không còn rối loạn, câu chấp nói làm lo âu nghĩ ngợi. Vì vậy kẻ trí gọi công lý là mặt đất lưu ly pha lê vàng bạc, sạch sẽ bằng phẳng quý báu vô cùng, hay cũng gọi đó là chỗ tâm của chư Phật vậy.
        Thấy được công lý là nhờ cặp mắt sáng tương đối của trí huệ, cho nên gọi rằng: Công lý sanh trí huệ, hay trí huệ sanh công lý, khi đã biết gặp rồi, thì hết lầm lạc, không còn níu đeo theo cái khổ nghiệp, mới đứng yên phép (Pháp là ánh sáng giáo lý giữa trí huệ và công lý, gọi là Pháp bảo của chư Phật, đang vẫn sẵn có trong thế gian).
IV.—Giác ngộ Công lý; Enlightenment Justice
       Vậy nên: Khi đã giác ngộ rồi thì ta thấy rằng: Phật Trời, người thần, thú ma, địa ngục cỏ cây đất nước gió lửa, thãy như nhau, bằng nhau, giống nhau không có điều chi phân biệt, trong những sai khác, khác nhau nơi bề ngoài. Và cái ý của chúng ta không bao giờ còn có được. Công lý cũng như hai bàn chơn của ta, cũng như hai lỗ mũi như hai lỗ tai, như cặp mắt, như hai tay, là của cải sự thành công. Do các căn lành ấy, để thâu vào một cửa miệng chứa vào một bao tử đặng nuôi sống cả cơ thể chúng sanh chung, hay công lý tức là cái nhà trường học, để chứa ở dạy nuôi nhà hiền thánh vậy. Sức mạnh của công lý như hai vai, như cầu sắt, như mặt đất, như nước bằng, như tàu xe, như hàng rào, như lộ cái, như biển cả núi to, như lửa gió, hư không, là một sức mạnh từ nhỏ tới lớn, một sức mạnh khôn lường, nắm được lấy nó, sẽ toàn thắng tất cả mọi phương diện, mà gọi là cái sống của tất cả chúng sanh, không có nó muôn loài chết thảm.
       Công lý sanh ra giáo lý, có hai, để đem lại công lý là một, nên gọi rằng: giáo lý là pháp thế gian tương đối [149].; Justice gives birth to teachings, there are two, to bring justice to be one, so it is called: teaching is relative worldly dharma [149].; Để đem lại sự giác ngộ là công lý pháp Phật tuyệt đối [149], tạo cái giác là Phật, cho chúng sanh, vậy nên gọi cõi đời là cõi Phật. ; To bring enlightenment is the absolute Buddha's justice [149], to create enlightenment as Buddha, for all sentient beings, so the world is called Buddha land.; Phật đã thành, Phật đang thành, và Phật sẽ thành, ai ai rồi cũng là giác, biết Phật cả thảy, cũng như mặt đất là cõi Phật đã lập, cõi Phật đang lập, và cõi Phật sẽ lập, như vậy tức là cõi Phật tất cả rồi đó. Chỉ có điều là chúng sanh đã giác ngộ nhận ra, hay đang giác ngộ nhận ra, hoặc chưa giác ngộ nhận ra đó thôi. Như kìa là thế giới của Phật A Di Đà phương Tây, hay là cõi Phật Dược Sư phương Đông, thật trang nghiêm bình đẳng mát mẻ thanh tịnh vô cùng, cõi của chúng ta mai kia cũng được như vậy, là do mọi sự cố gắng của công tâm, do nhờ giáo lý tiến hóa của chúng ta thì mới chắc được sự sáng loà rực rỡ, đâu còn lo gì sự lổng chổng không công, mệt nhọc mãi hoài thót ruột.
         Công lý vốn sẵn nơi việc làm, nơi lời nói, nơi ý tưởng, nơi ta, nơi người, nơi xác thân, tâm hồn, lý trí, nó phát sanh từ nơi tứ đại lăn xây, như bánh xe, như cây cân, như mặt kiếng, là sức rung động phản dội mạnh mẽ phi thường huyền bí kỳ diệu. Vì đó mà lắm kẻ quá tự tin cho rằng: "có bàn tay sắp đặt cõi đời, có đấng chúa tể nào đó, mới có chúng sanh". Và chúng sanh ở trong định luật các pháp, của vị ấy, vạn vật bởi vị ấy tạo ra, vị ấy là cha sanh ra, trước hết sanh ra vị ấy bởi một lý thuyết mênh mông!; Chúng sanh là con, mỗi chúng sanh đều có tay sai quỷ thần hộ mạng. Sắp đặt giữ gìn nuôi sóc. Cũng có kẻ trong giấc chiêm bao mơ màng khi tưởng tượng cùng trong khi mới chết, hay lúc trở về già, đối mặt với phản giác kính trừu tượng của công lý, như đứng trước gương nghiệt canh mà thấy ra tù khám diêm vương xử phạt hoặc gặp phải cảnh thiên đường xứ Phật, trong thế giới tưởng tượng. Chịu lắm sự thưởng phạt vu vơ, hình bóng lâu ngày.
        Đã đành rằng công lý là luật dĩ nhiên của tạo hóa, thì cần gì sự bênh vực hay xử phạt, để giúp đở cho chúng sanh tiến hóa mau hoặc chậm mới được hay sao? nào đợi phải Vua trời, Vua đất, Vua người, kiếm người làm việc, mà gìn giữ cảnh giới nào ? Đã là công lý thì kẻ ác trẻ con, phải chịu sức phản dội nặng nề đau đớn của việc làm, hơn là người thiện; hành vi của kẻ thiện như giá cân lổng chổng, ngông nghênh, mỏi mệt ngộp sợ, hơn là người không thiện, không ác, giữ mực song bằng. Công lý vốn không thiện ác thưởng phạt, mà kẻ làm ác thiện thì bị thưởng phạt, khổ vui, cười khóc, phiền não lăng xăng trói buộc, chớ ích gì! Thế nên cõi của bậc giác ngộ, và những bậc đã giác ngộ rồi, thì cần gì pháp luật cõi linh hồn hay xác thịt nào đợi gì phải có âm phủ, dương phủ, sự thưởng phạt của người trời quỷ. Nếu họ biết xử phạt cai trị người, còn ai xử phạt cai trị lại họ, chẳng là bất công, hay lợi dụng công lý, làm quyền, chẳng là ngang bạ lắm sao? Đã là ai cũng như ai, nếu không ai mượn mình chỉ dùm công lý, thì hà tất phải tự mình bày khai, bắt buộc ép người phải học tuân theo. Bởi vậy cho nên cõi công lý là cõi vô quyền, vô trị, không có giai cấp, việc làm chi cả, mà Chư Phật thánh y theo, nên không bao giờ khổ lụy.
         Kìa là xứ Cực Lạc, nọ là Giáo Hội Tăng Già, nơi ấy chỉ có công lý là pháp bảo, giáo lý học hành, không giai cấp hoặc phái môn.; There is the Land of Ultimate Bliss, that is the Sangha Church, where only justice is a treasure, teaching and learning, no caste or sect.; Nếu có thì chỉ có "giai cấp của giới luật thiện lành" như đã từng nói nơi Chơn lý Lễ-giáo.If there is, then there is only the "class of the good precepts" as said in the Truth of the Ritual.; Và chẳng ai làm việc cho ai, mà được muôn năm hạnh phúc, vĩnh viễn yên vui, giải thoát hoàn toàn, nào đợi oai quyền chế độ.; And no one works for anyone, but has a long and happy life, eternal peace, complete liberation, waiting for the regime's authority.
Chiếc vòng danh, lợi cong cong,
Kẻ mong thoát khỏi, người trông bước vào!
The ring of fame and profit is curved, 
Those who wish to escape, those who look to enter!
         Than ôi! Nếu bao giờ chúng sanh chưa tỉnh ngộ, chưa nhận được công lý nơi mình, chủ tể là mình, thì muôn kiếp vẫn mãi làm tôi mọi cho kẻ hoang đàng dốt học, maà bị trói buộc đáng thương xót vậy. Nếu chúng ta hiểu ra công lý, thì trong đời, cần gì ai phải đi làm tôi mọi sắp đặt xử trị cho kẻ khác hay sao? Đã sẵn công lý thì nào ai phải mượn ai, mà có ai lại sắp lo cho rồi, những việc mà người ỷ lại, để buông lung làm ra mãi mãi. 
___ [151] Vậy nên tốt hơn là mỗi người phải tự học hiểu công lý, để rồi đời sống của mình ra sao, do hành vi của mình, là mình chịu lấy chớ khen chê, chẳng là hay hơn. Chớ nếu kẻ thì giữ gìn luật pháp sắp trị như tôi tớ, còn người lại làm chủ, ỷ lại pháp luật có sẵn để cứu mình , mà mãi tha hồ tạo nghiệp, để đến lúc bị xử phạt lại than van, hoặc được thưởng khen thì cười vui hê hả. Như vậy chẳng là tội nghiệp cực khổ cho kẻ làm quan vua lắm sao? Mảng vì bị danh lợi, dân chúng tôn hùa bợ đỡ, để mãi làm tay sai cho dân chúng suốt đời, mà trái lại lắm kẻ ghen ham đua chen vào vòng xích tỏa, rồi một ngày kia ai cũng quan vua hết, thì hỏi vậy chớ còn ai mà làm dân, rồi ai xử phạt cho ai? Lắm khi mảng lo thiện ác cho người, mà quên sự phải quấy của mình, bởi địa vị càng cao lòng tự ái càng trọng khó dằn tâm sửa trí mà phải bị quả báo trừng phạt về sau.
       Công lý vũ trụ chẳng bao giờ bảo ai đứng ra thay thế cả, chẳng bao giờ bảo ai dạy sắp cho ai, và chẳng bao giờ bảo ai ỷ lại nương theo ai, sao chúng ta lại tìm chi những cái vô lý ấy vậy. Công lý là chủ tể, tâm của mỗi người, tánh của nó là định, chơn như bình đẳng, bằng ai vọng động bất công thì bị quả báo vay trả tức thì. Nên chi Chư Phật tạm gọi là chỉ bảo đạo lý cho chúng sanh, người mà cầu khẩn tìm nghe học hỏi, chớ chẳng xưng thầy, buộc người phải học, vì ai nấy cũng như nhau mà thôi.
        Vả lại dầu có khổ vui còn mất đi nữa, thì trong cái này có sẵn cái kia, trong cái kia có sẵn cái nọ, dầu thái quá bất cập hay trung dung đi nữa thì cũng như nhau, có ai mà đi chìu được ý muốn của kẻ tham lam, khi ưa vầy, khi muốn khác cho họ được vừa lòng. Cho nên bằng sự dạy chỉ cho công lý kia, mà Chư Phật còn ít nói thay, huống chi là đem mình đi làm những việc vô ích chi chi, lếu rộn, bôn chôn, giữ gìn, bên vực. Bởi thê cho nên Phật dạy rằng : cõi trời người địa ngục còn khổ bởi vô minh, biết thiện ác mà không có học công lý, nên mới chấp nắm giáo lý thế quyền khổ nhọc không công vô lý sái trật lắm. Mà lại nếu pháp luật nhiều, thì kẻ gian ác lại thêm nhiều. Kìa Phật là một kẻ chúng sanh như ta , nhưng nhờ biết công lý rồi, thì vua trời, vua người, vua quỷ, không lấy lẽ gì cai trị đặng, mà trái lại còn tôn thờ học hỏi.
        Vậy ta nên làm Phật, học hiểu công lý, biết thấy đạo tâm, mới là giải thoát, giải thoát hoàn toàn. Vậy ta nên nhớ rằng : Giác ngộ công lý như Phật kia mới là Phật. Còn giáo lý thế quyền giai cấp, chế độ thần quyền, là lớp tạm để dạy phạt kẻ tối tăm dốt nát, dại khờ quấy ác thôi.
       Vậy nên các thầy giáo trong đời ấy, cũng là tạm, rất giả dối, rất mệt nhọc. Mà tất cả thầy trò lớp học còn phải cần sửa đổi học hành, để đem nhau đến lần công lý đặng giải thoát. Hiểu nơi công lý các lớp xã hội ấy dầu không có cũng được, đơi gì phải đi bênh vực lo riêng cho loài người mà bỏ thú vật, hay bỏ các loại khác bất công để lo cho vô ích. Đã không ai mượn, lại cũng chẵng ai nghe lời đó vậy. Dầu mà có người tôn lập ép buộc cầu khẩn đi nữa thì khi nhận lấy thế quyền, mục đích là phải lo cần yếu dạy học, còn sự sắp đặt là tạm sơ cho có chừng trong mỗi lúc theo thời duyên cho xong mà thôi. Cốt yếu là làm sao cho học sinh mau hiểu biết. Để khi nó đã biết công lý rồi, thì không cần sắp đặt; chúng nó cũng tự hòa hiệp yên vui lấy nó, mà đố ai xúi bảo nó đi làm sái quấy cho được. Vậy ta nên xem gương học trò lớp chót hổn tạp ồn ào bất trị, mà nào ông thầy giáo có khổ tâm về chổ đó, ông chỉ sắp tạm sơ cho lấy có, và cần dạy học mà thôi,nhưng trải qua lâu ngày giờ có học tập, thì nó càng êm thấm thuần thục lần, và khi đã lớn khôn bước lên lớp trên cao, thì học sinh ấy, thật là hoàn toàn tốt đẹp. Chớ nào phải đâu là sự mãi lo ăn ở giựt giành trốn học để đi chơi chịu dốt hay sao ? Nếu không hiểu công lý, thì thật là dốt, đã là dốt thì làm sao hiểu được mục đích chánh đẳng chánh giác trung đạo Niết bàn, là chỗ đến của tất cả chúng sanh, hòng đi tới, đi tới công lý của võ trụ để làm chúa tể lấy ta, giữ gìn bản ngã.
          Trong đời kẻ không biết công lý, cũng như người không có con mắt chủ tể, thì các căn kia cũng chết liệt, khác thể thây ma, như cái tử thi vô dụng, dơ thúi chật lối choán đường để phải vịn đeo lần mò theo kẻ khác, mặc phú thác cho kẻ dẫn đường rủi may tới đâu trối mặc. Nếu gặp phải thầy trò như nhau, hay quỷ ma dối gạt thì còn gì là số phận, vấp té sụp nhào ngã lộn đớn đau, bị hành phạt mãi, bởi mê tin theo lời bóc bướng.
          Cũng lắm kẻ cho rằng không có công lý, nên tha hồ làm ác, phải chịu họa tai. Chính công lý là một sức mạnh, một quyền thế, chớ không phải quyền thế sức mạnh là người ta ai ai,mà lắm kẻ lại áp dụng để hiếp đáp người. Nhưng đã là công lý, như bóng theo hình, kẻ trèo cao sẽ té nặng, người xảo trá há được bình yên mãi đâu ? Đối đầu mới biết mình thất bại, tự mình hại lấy mình, không than trách. Vậy nên ta nhớ rằng: trong đời chẳng có ai hơn, và chẳng có ai thua, cả thảy sau trước vẫn bằng nhau mà thôi.
        Xưa kia có kẻ giết một tên cướp, để cứu mười thương khách, nên đời sau được hưởng giàu sang, của mười gia tài, mà sau rốt phải bị chết chém. Một vị tướng giết muôn mạng, để binh vực một xứ kia, nên được xứ kia tôn làm vua, nhưng muôn kiếp khi chết đều bị giết hại. Ay đó tức là công lý rõ rệt, thưởng phạt phân minh, mà chính trước mắt chúng ta, hằng thấy mỗi ngày nên nhân loại, dầu việc to việc nhỏ, không bao giờ khỏa lấp, một nhà sư đi đường đạp cỏ, nên tới nhà người phải bị chúng khinh khi. Một kẻ ngắt luột rau, về sau cả mình đau nhức. Người đập muỗi, giết ruồi, chà kiến, nên phải bị sự đánh đập, ép ngặt, chà xát, chết vì đòn đau. Người làm cá, sau phải bị phân thây, lột áo, khi chết đứt đầu, mất ruột. Kẻ giết chó thì chết tru. Người làm heo, khi chết bị nghẹt cổ. Kẻ lột da thú, cả mình ghẻ lở, cùi phun là bởi chặt chân người. Còn kẻ giết người thì bị người giết lại. Các nghiệp quả sẽ trả lại cho người gieo, hoặc bây giờ, hoặc khi chết, hoặc đời sau, nhơn thiện nhơn ác thì quả thiện quả ác, trước sau hoặc mau hay chậm, người gieo nhơn lộn xộn thì kết quả lộn xộn, kẻ lựa giống rặt ròng thì kết quả rặt ròng. Nhơn trong sạch không thiện ác thì quả cũng trong sạch không thiện ác. Khi người gieo nhơn, thì quả đã tượng trong tâm, và sau nầy nó còn xuất hiện ra ngoài, mà đến cho ta. Củng như kẻ làm ác, một là bị lương tâm hành phạt, và rồi còn bị quả báo đến nơi ngoài : hoặc kẻ đó hại lại ta, hay là người khác trả giùm, dầu sau hay trước, ta không tránh đâu sự báo đáp. Có điều là nặng hay nhẹ, do sự biết sám hối cùng không! Cũng như kẻ kia bầm cá, soi ếch, cho là không tội, bởi nói không tội bướng liều, nên quen tay làm mãi, tập lần tánh ác giết đến cả người ta. Cho nên về sau, bị giặc trăm người bắn giết phân thây trăm mảnh. Chớ chi mà biết sám hối ăn năn sớm chừa dứt lỗi thì quả báo nhẹ hơn, hoặc vả như đau nhức từ miếng thịt, hay như bị trói mình, cũng còn dễ chịu.
         Vậy nếu chúng ta sớm nhận tội, chẳng khá hơn là để tội kéo dài, nãy nở chịu nặng lâu ngày. Nếu biết tội thì tội còn phương chừa bỏ; còn mà không biết tội thì tội mãi thâm sâu. Cho nên xưa kia Phật có dạy rằng: giặc giã cũng như người giết cá, thì đời sau cá tìm giết lại, mà chẳng bao giờ nó phá hại kẻ vô can. Khi ta làm giặc giết cá, thì khi kia cá cũng làm giặc giết ta, không sao tránh khỏi. Có những kẽ kia đạp gai, cá đâm, vấp người, mà chết, ấy cũng chẳng phải là công lý nhơn quả hay sao. Có người nọ ăn rau sanh bệnh, ăn thịt làm độc, đánh người mà đau, ấy chẳng phải vì mình ăn nó, nó ăn mình, mình đánh họ, họ đánh mình, mới ra nông nổi.
        Cho hay rằng nếu trong đời không có lăng xăng như vậy thì đâu có cõi đời. Mà thử hỏi lăng xăng nhơn quả thiện ác như vậy, cho khổ mệt để làm chi? Ích lợi cho ai? Như vậy thì sự bằng thẳng yên lặng không thiện ác như chư Phật, chẳng là hạnh phúc quý báu hơn hết ? Ta nên biết rằng, thiện ác phát sanh tại tâm lúc khởi, thì quả báo cũng đã có sẵn nơi tâm xuất hiện rồi, nào đợi phải có kẻ nơi ngoài mà ngăn tránh, và tránh sao cho khỏi? Mọi nỗi vui buồn trong từng sao, phút là do nhơn quả, bằng không nhơn quả tức là sự phẳng lặng niết bàn Công lý, thì không còn sự khổ não của vui buồn lộn xộn.
VI.— Khẩu quyết truyền tâm-ấn; Speech transmission of mind-press
        Cũng có kẻ gieo hột mà không có trái, là bởi sự không vun phân tưới nuớc mà nó chết ngang, hay chặt bỏ khi mới mọc, cùng là hột giống gieo trong đống lửa bị chết co, thì mới không còn quả báo. Hột giống ấy tức là tâm vọng, lửa kia là trí huệ, lửa trí huệ đốt trừ tâm vọng, gươm trí huệ cắt chẳng cho sanh, hay như sự chẳng nói làm ô nhiễm là không nước đất, thì mới không thọ hưởng quả báo. Có người mãi gieo trồng vun phân tưới nước, lại sợ quả báo chua cay. Vậy nếu sợ là sợ khi trước sự gieo trồng. Bằng sự đã dĩ lỡ rồi, tốt hơn là đừng vun phân tưới nước, nói làm nữa. Và còn lại hạt giống bao nhiêu trong tâm hãy liệng thảy bỏ đi, hay tìm dao trí huệ, lửa thiền na trừ diệt, đừng cho thêm sanh nữa, còn cây nào đã có quả, quả đang sanh mà ta không thể đốn trừ, thì tốt hơn là không thèm sợ, mà bỏ qua tới đâu hay đó, ta chỉ lo nhập định cho vui mà quên lấp nó đi, khi nào quả tới thì mau ăn cho hết, chớ để dần dà cất lại bỏ rơi, đừng cho mai sau mọc lại mới là hết tuyệt.; Như trong chơn lý Vô Lượng Cam Lồ, giáo lý của pháp đốn giáo để loại trừ vọng ý.; As in the truth of Boundless Nectar, the teachings of the Dharma cut down the path to eliminate false intentions.
         Ví bằng ta muốn đốn cây cho thật to, thì phải rán ra công rèn đúc, búa to cưa lớn, như bậc Bồ tát kia mới được. Mà cũng còn là sức đốn một hai cây, chớ như đã trồng nhiều như đám rừng, thì lớp đốn, lớp ăn, đừng cho sót mọc. Nếu biết sợ thì đừng gieo, gieo hột có trái rồi, thì sợ nữa mà làm chi vô ích. Còn sự đốt bỏ, chặt đứt, chẳng tưới vun, là phải xuất gia bỏ thế lìa đời, xa vòng ô nhiễm, trì giới, nhập định trí huệ mới được. Ngoài cách xuất gia để không tạo nghiệp thêm, để tránh quả xấu, và vui chịu hưởng quả cũ, là không có pháp nào yên vui được. Bởi hột giống của chúng sanh vốn sẵn tức là si mê ngòi mộng, sân giận thịt cơm, tham lam như bao hột, ôm giữ lấy nó làm thân tâm trí của cải lâu đời, để nó ở trong trần thế là chỗ nói làm như đống rác, thì sao lại chẳng mọc lên chồi.; Ngược lại, vị bồ tát dạy đạo, đã dùng câu nói hai câu năm và sáu của Bảy phần Bồ đề Chánh niệm mà "truyền tâm-ấn", rằng:; On the contrary, the bodhisattva teaching the way, using the five and six sentences of the Seven Parts of Mindfulness Bodhicitta, "transmits the mind-seal", saying:
Năm là nhớ tưởng đạo lý.
Sáu là nhứt tâm: đại định.
Five is moral remembrance.
Six is one-pointedness: great concentration.; Dưới cội cây Pháp Chánh-Giác, người học trò nhỏ, đã vô tình mà thọ nhận pháp môn tu: Trực chỉ chơn truyền.; Under the tree of Dharma Right Enlightenment, the young student unknowingly received the dharma discipline: Direct transmission.
        Chỉ có xưa kia Chư Bồ Tát triệu ức kiếp vay của chúng sanh hoặc bằng thân mạng, hoặc món cửa nhà, để lo ăn học đeo theo mãi mục đích của sự học, nhờ vậy mà đặng thi đậu đắc quả thành công, trở nên bực toàn năng toàn giác. Các bậc ấy không sợ quả báo luân hồi, là do nhờ chủ định. Thấy ra mục đích của chúng sanh là học, nên lo tìm học công lý cho mau giác ngộ, để cứu đời. Vay của người nuôi thì để đó không thèm vội trả. Cho rằng bổn phận mình chỉ có ăn học, còn kẻ nuôi là ý họ muốn cho ta học nên, để dạy chỉ bảo lại cho họ thấy đường đi về sau mà đền ơn chớ không phải họ nuôi ta như voi ngựa, để bắt ta phải làm thân nô lệ mà đi đền đáp xây vần.
       Vậy bổn phận ta phải lo chăm học, hãy quên lãng bỏ qua ân nghĩa tạm, đặng đừng phụ ý ta và lòng họ. Mà sự cung cấp ấy do người hảo tâm tự ý, chứ ta không gây tạo, nói làm ép buộc, có chi nuôi sống lấy tạm, lếu láo qua ngày , thanh bần đơn giản, làm kẻ du tăng trò khó, chẳng tham sân vậy. Đợi đến chừng đắc quả rồi, mới đem đạo lý giáo hóa cho cả chúng sanh chung, một thời nói pháp cho cả vạn ngàn người nghe, một lời thốt ra để mãi trong thế gian, ghi sâu trong sách sử triệu kiếp, quý giá hơn kim cương. Một câu giảng dạy cứu khắp địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, nhơn, thiên, đưa về cõi Phật, cha mẹ quyến thuộc muôn đời, kẻ ơn nghĩa từ xưa, dầu ở đâu đâu cũng đều được giác ngộ siêu thăng, như Phật Thích Ca xưa, khi đắc quả A La Hán rồi thì đi giáo hoá cho khắp chúng sanh mà đền ơn xưa nghĩa cũ. Khi thì vào địa ngục giải cứu chỉ dạy, khi đến nơi ngạ quỷ khuyên răn, lúc sanh làm thú để cảm hóa làm gương tập dạy, khi làm thần dạy dỗ chư thần, lúc làm cây cỏ thọ thần thuyết pháp. Khi sanh cõi người lập đạo, lúc sanh lên trời giáo hóa sau khi kiếp chót, đền trả hết công ơn của chúng sanh rồi, trong tâm mới được an vui nhẹ nghiệp mà vào cảnh vắng lặng Niết Bàn. Chính Niết Bàn là nơi hết nghiệp của tâm, mà ơn nghĩa lòng thương của chúng sanh ta đã được đáp đền thỏa mãn tròn xong đó vậy. Thật vậy, chỉ có pháp thí mới là cách trả nợ mau lẹ đông nhiều, khẻo nhẹ và ích lợi hơn hết. Kẻ chủ nợ ta sẽ làm đệ tử ta, khi trả nợ ta vẫn không mất chủ quyền. Chỉ do lời nói, nơi kẻ tham lam đòi của, ta lại dạy cho bố thí là bến bờ bên kia, để lánh xa địa ngục vật chất ; với kẻ sân giận đòi mạng, ta dạy cho nhẫn nhục là cõi Niết Bàn diệt khổ, tắt lửa trong a tỳ. Kẻ giải đãi ăn chơi, ta lại chỉ cho phép tinh tấn là món vui ngon, để dứt lìa nơi cấu trượt v.v… Chính nhờ sự vạch đường chỉ lối cho kẻ tối tăm mà cứu độ cho họ, thì kẻ chủ nợ không còn đòi hỏi, mà lại rất mến cảm thâm ân vạn bội. Bởi pháp bảo là quý hơn hết. Pháp bảo như thịt xương của Phật, đã ắm giữ được nó thì ai còn ức hiếp gì mà đi đòi ngũ trần như thịt thối xương khô mà làm chi. Ay vậy cho nên không làm Bồ Tát, không đắc quả Như Lai, không giáo hoá chúng sanh đền ơn, tâm ta không yên vui bằng thẳng, Niết Bàn, ngơi nghỉ. Cũng như chưa làm thầy giáo thì có đâu đốc học hưu trí, và ơn thí chủ của họ còn vẫn kêu đòi, dễ gì cho ta yên tịnh.
Vậy nên nhớ rằng : Niết Bàn là sự không còn nghiệp nữa , sau khi đại nguyện, từ bi, trí huệ đã mòn hết không còn. Cũng giống như kẻ đã ăn no quên hết, như ngủ nghĩ sau khi thức mệt, là lý sự đã hết tiêu, không còn có được, giống như ngọn đèn cạn dầu đã tắt nghỉ, cái nghỉ không cùng. Đại trí huệ của Chư Bồ Tát cũng như cái búa to, cây cưa lớn, nên chúng sanh không còn đòi nghiệp quả nơi ngài, là bởi được học và mến đức ngài ; nhưng tuy vậy chớ nơi nào ngài chưa xét đến nhân duyên để giáo hoá, thì nơi đó quả chín cũng có kẻ đòi hỏi la rầy, không sao tránh hết được.
Bậc Bồ Tát là đả thi đậu rồi, được học đi chơi rồi và đang giáo hoá.
Bậc Bích Chi là đã thi đậu rồi, và đang nghỉ đi chơi.
Bậc A La Hán là mới vừa thi đậu.
Cho nên gọi là : Bồ Tát như thầy giáo, Bích Chi là kẻ có học, A La Hán như học trò mới thi đậu ; đều là những bậc đã đắc quả hết rồi, khác nhau theo danh từ của sự : đã mặc áo thầy, đã dạy học, sau trước đó thôi. Bậc A La Hán và Bích Chi, thường khi phải bị trả quả ; nếu quả nào chín trước, là bởi tại mình chưa đi dạy đạo trả cho họ, nên phải chịu hỏi đòi. Tuy nhờ nhập định đắc quả yên vui, nhưng chỉ là niết bàn tạm, vì cái yên vui của đời mới thi đậu và còn say mùi pháp, nó chỉ được nghỉ lặng trong một thời gian, khi lâu về sau, tâm sẽ bị xao động lại vì lòng từ bi, đối với nghiệp quả đang đòi hỏi, mà phải bước ra đi giáo hóa, tự mình trở lại luân hồi làm Bồ Tát để dứt nghiệp cho mau xong. Các ngài khi thì tạm mang xác thân trời, người, thú, cỏ cây, thần quỷ, cũng như mặc áo diễn trò, chú thật ra tâm các ngài không phải giống như trời, người, thú, cỏ cây thần quỷ đâu. Các ngài chỉ mượn xác thân ấy, đặng dựa theo chúng sanh loại đó, để làm quen mà dạy dỗ đó thôi. Cho nên không có chê thân thú, thân cây, quỷ ma gì cả. Chỗ nào cũng được, chẳng lựa sạch dơ, hạp duyên thì đến, mãn thời lại đi, đã là mục đích đi trả nghiệp bằng pháp, thì không có sự nệ câu chi chi cảnh ngộ nào. Nơi đây các ngài lại được hưởng sự yen vui cao thượng hơn là sự trong sạch của nhập định, chỗ vắng, cảnh tịnh, pháp hay, mà là nhận lấy cái vui tuyệt đãi nơi người, mà quên sự khổ nhọc của mình, vui nơi cái khổ, vui bởi trí hay, vui cùng khắp xứ, vui với đủ hạng chúng sanh, nhất là cái vui nơi nhẹ nghiệp, như người tắm sạch, bụi đất rớt từ từ lần, như cái vui của một bà mẹ hy sinh nhất là cái vui nơi bầy con ngoan ngoãn.; 
Mười Câu Pháp Vị Tha; Ten Sentences of Altruism ✔
(Đệ tam Tổ sư Thích Giác Tịnh.; Third Patriarch Thich Giac Tinh.);( Sư thầy thường nói câu "vật chất hữu hình là hữu hoại"...; Monks often say "tangible matter is perishable"...
1.- Một là có khổ mới có vui.; One is suffering to have joy.
2.- Hai là có cực khổ mới có sung sướng.; Second, there is suffering to have happiness.
3.- Ba là không còn biết khổ bởi đã quen khổ.; Third, we no longer know suffering because we are used to suffering.
4.- Bốn là vui trong cái khổ.;  Four is joy in suffering.
5.- Năm là nghỉ ngơi trong cái khổ.; Five is rest in suffering.
6.- Sáu là nhận lấy cái vui tuyệt đãi của người, mà quên khổ nhọc của mình.; Six is ​​to receive the great joy of others, but forget your own hardships.
7.- Bảy là lánh xa điều ác.;  Seven is to shun evil.
8.- Tám là cần chuyên việc thiện.; Eight is to specialize in good deeds.
9.- Người như vậy, mới thật là thấy chánh, và đi trúng theo lẽ vật chất hữu hình của sự tiến hóa trong cõi đời.; Such a person really sees the truth, and follows the tangible matter of evolution in the world.
10.- Người như vậy, mới biết lập cho mình và cõi đời, từ nay và mãi mãi về sau, trở nên một Thế giới Cực lạc, mà có mình trong ấy mỗi lúc.; Such a person will know how to set up for himself and the world, from now on and forever after, to become a World of Bliss, in which he is present every moment. ☑
___ "Nguyện cầu cho tất cả chúng sanh trong mười phương. Đừng có oan trái lẫn nhau. Hãy được sự an vui, tránh khỏi các điều rủi ro, tai hại. Cho được sự hạnh phúc và nhàn lạc luôn luôn."; Pray for all sentient beings in the ten directions. Don't be wronged by each other. Be at peace, avoid risks and harms. Have happiness and leisure always."
        Vậy muốn thấy rõ niết bàn công lý của tâm chơn, thì : thưở xưa kia có một vị sư, trong 20 năm thọ cúng dường, nắm ngon của một vị thí chủ, vì đó mà thấy sự mang ơn, cho nên sau khi chết tâm nhập định yên lặng không được, mãi vì xao xuyến bứt rứt sanh phiền não, không thể ở chung với bậc A La Hán đặng, mà lại sợ nẽo luân hồi nên khổ quá mà chẳng biết làm sao, khi ấy Chư A La Hán thấy vậy mới chỉ cho phương pháp tế độ, là mỗi ngày biến sanh làm nắm ngon mọc trong vườn của người thí chủ mà trả lại, mỗi ngày mỗi mọc cho đủ 20 năm, sanh làm nấm để chịu nấu luộc đau đớn, nhờ vậy mà mỗi ngày sau khi tỉnh lại là trong tâm thấy nhẹ bớt một phần, đến khi đếm đủ 20 năm nghiệp vọng mới hết, trong tâm được tịnh định mà đắc quả A La Hán.                   
Điều nhơn quả ấy là bởi ại vị sư, quên phận sự mình là học trò tu học, mà lại nhận thấy miếng ăn ngon, thèm nhớ, nên mới phải chấp công ơn, mà quân đạo lý, lại cũng do thí chủ tu phước đức mà thiếu trí tuệ, và sự nuôi học trò khó sĩ hiền là phải, nhưng sao lại cho miếng ăn ngon, để phải học trò hư tâm và sau này không ai dạy bảo đường lối cho mình. Còn vị sư ấy không được sự nhận xét đến lẽ độ chúng sanh về sau, mà bỏ qua ơn nghĩa tạm, mãng vì lòng tư kỷ, tự độ lấy thân mình, bắt người nuôi sóc, thì sao lại được tâm chơn, diệt vọng, mới mãi khổ nhớ công ơn, lương tâm xao xuyến cắn rứt, ấy bởi học trò lỗi đạo, không thông mục đích của mình, nên mới phải tự đem mình đền quả báo, để mong cho được sự yên vui tạm, của Niết Bàn A La Hán, rồi thì về sau lâu ngày cũng còn nhớ lại đến ơn nghĩa của chúng sanh muôn đời trước, mà trở lại cõi đời, để giáo hóa tế độ chúng sanh nữa vậy.
Vậy thì chúng ta nên nhớ kỹ rằng : Không phải nhơn quả chỉ có một đời, cho một hai người, mà ta hằng đem thân đền trả cho hết đâu ! Ta trả nợ xong một chủ, thì sự yên vui vắng lặng chỉ được trong ít ngày mà thôi. Muốn trả hết nợ từ vô thỉ, thì bây giờ ta đừng tham sướng no thân, đừng cần thấy nhớ ơn nghĩa chi cả, và phải hiểu mục đích của học trò, lòng mong mỏi của chúng sanh, mà chỉ phải ráng lo tu học thôi, để rồi sau này dẫn đạo giáo hóa lại cho họ, để đạo lý lại muôn đời, mới phải là kẻ giác ngộ, toàn hiếu toàn trung, vẹn toàn ân nghĩa. Nên bỏ sự nhỏ gần, dòm ra nẻo xa lớn, mới không còn lầm lạc khổ sở, mà để, lợi ích cho ta và người. Trong đời cũng có lắm sự thiển cận như vậy, cho nên có kẻ mãi chịu luân hồi trả quả, vừa trả lại vừa vay, trả một vay mười là bởi tại có xác thân bao tử, tham sống ăn chơi, nên muôn kiếp trầm luân trong bóng tối, vui để chịu khổ, khổ vui thay đổi, an ủi để hành phạt, trong chốn địa ngục a tỳ vô gián mãi không ngừng, thật đáng thương xót lắm.
Vậy chúng ta đừng chấp công ơn mà trả nợ bằng cách ấy, và cũng đừng bướng bỉnh ngang tàng cho rằng không công lý mặc sức tung hoành, mà còn quên rằng cái ý của ta bao giờ nó cũng tráo trở, phản đối với hành vi giáo lý của ta luôn luôn, và nó dắt chúng ta đến nơi hành phạt, nhất là cái ý nó làm cho ta khổ, khổ tại ý mới tìm đường trả quả, mà lắm kẻ lại chưa hay, để khi vui thì cười, khi buồn thì khóc và khóc mãi, lại đổ thừa cho ai ai trời đất quỷ thần may rủi. Chính cái ý là quỷ vô thường, nó đem xiềng xích bắt lôi kéo tâm hồn ta vào xuống địa ngục, cũng gọi nó là quỷ la sát dạ xoa trí ta như phán quan thơ lại, ghi chép nhơn nghiệp hằng ngày, lương tâm chủ tể ta như diêm vương ra lệnh đày phạt kết án.
Hành vi của ta là vách sắt tường đồng, của cải sự nghiệp ta là sình lầy than lửa, lý thuyết chương trình giáo lý chủ nghĩa của ta là bóng tối ban đêm. [161]; Our actions are iron and copper walls, our wealth and our career are the mud of coals and fire, our doctrines and programs are the darkness of the night. [161]; Các sự hành phạt là đau thương xiềng xích của luyến ái thân tình. Nó làm cho ta đau đớn khổ chết tâm hồn, chết đi rồi sống lại để hành phạt kiếp tới, lớp khác liền liền. Chính nguồn gốc của sự tìm thân sống là hành phạt nơi địa ngục, làm cho tâm phải chết. Sợ chết lại càng tìm chết, tránh khổ lại chun vào ổ khổ càng lăn sâu vào thành thị phố xá phồn hoa, càng nhào tuôn vào cửa vua quan giàu sang phú quý vinh hoa, lại nhủi tuốt vô nhà giam khám tối, chịu lụy khốn cả thân tâm trọn vẹn.
Ấy bởi sự hiểu lầm, tưởng nơi chốn phong lưu xa mã ồn ào là cõi thiên đường xứ Phật nên ai mà lại chẳng ham tìm sanh vào nơi phú quý vinh hoa, để hưởng bụi trần no bụng. Nào dè phật tiên lại ở trên cao rừng núi, sự tốt đẹp mừng vui, lại là lý trí tinh thần không không các vật. Nên khi mà dầu có tỉnh ngộ thì đã mang tật chướng gông xiềng nặng nề đau đớn, làm sao mà lên khỏi mặt đất dưới hầm sâu.
Than ôi ! Sự mãng lo tranh giành cái địa ngục vật chất nấm mồ, quỷ thần ấu đã, mãi mãi nắm chặt lấy cái ta và của ta nơi đó chẳng hay rồi. Còn thì giờ rảnh đâu, mà ngó lên thiên đường, dòm qua Phật Quốc. Xem tới nhân loại, hòng ra khỏi nơi tam đồ bát nạn. Bởi say mê điên đảo chưa thức tỉnh chẳng nhìn ra, có lắm kẻ ỷ lại rằng : Tôi hay phải, tôi tốt đẹp, cao ráo trên đời, tài hay trí lạ. Nhưng nào biết đâu đó chẳng là, trong bóng tôí ban đêm, sự tiến hóa khéo hay của chư thần quỷ xinh lịch ảo thuật có thau gì. Mà nào biết được sự lánh trược tầm thanh, sự bỏ đông tìm vắng. Sự bỏ vọng tìm chơn, sự bỏ ma tìm Phật, sự bỏ phàm tìm thánh, sự bỏ khổ tìm vui, sự bỏ ác tìm thiện, sự bỏ thấp tìm cao của chư Phật Thánh, hoặc của bậc nhơn hiền, mà đem thân làm cây cỏ thú cầm, mặc áo thú cầm cây cỏ, để giáo hoá chúng sanh, để đền bù nghiệp tội, để giải thoát phiền não, để lo tu học, để hưởng thanh nhàn, tuy áo thân dơ xấu, mà tâm hồn an lạc thong thả phật trời hơn là sự chấp lành thân áo tốt đẹp xuê xang tưởng như trời phật, sự tô nhuộm sơn phết bên ngoài thán phục, để gạt gẫm kẻ tội nhơn, lưới bẫy rập nôm để rình nhốt kẻ gian tà bắt được tâm hồn đem vào trong rồi mặc sức khổ la cầu cứu.
Chúng sanh bởi chẳng biết mình là kẻ tội nhơn mãi đi trói buộc, chôn mình, tự đắc chấp khoe thân mạng, mà lọt sa vào màng lưới vô minh, lại càng tự cao quây lộn càng bó xiết chặt mình, nên khi đến lúc, thì phải chết trơ không còn cựa quậy, đó tức là công lý. Thái quá bất cập, nhơn quả bằng nhau, trồi lên hụp xuống, vui khổ xoay vần, thân tâm tương đối, cái được cái thua v.v… thật là phiền não vô ích, tai hại không ngừng, cao thấp mệt nhọc, tức là bài học tức là bài học trường đời để dạy chúng ta giác ngộ lẽ công bằng chơn lý. Cho nên khi kẻ đã hiểu đạo rồi, thì dầu thân này thân khác, tâm kia tâm nọ đi nữa, cũng vẫn yên vui một mực, yên lặng dung hòa, dầu ai có gọi là Phật Trời người thú cỏ cây ma quỷ mất còn sao cũng được, sao cũng xong, miễn là ta biết lấy ta là đủ.
Ấy vậy chúng ta nên hiểu, rằng : Do người có tội mà phát sanh ra pháp luật chớ không phải pháp luật sanh người tội. Pháp luật là để cai trị kẻ ác, chứ không phải áp chế người hiền. Luật pháp để đem người ác đến chỗ hiền lương. Muốn cho người hiền và kẻ hiền rồi thì phải lo tu học, tìm hiểu công lý lẽ thật, đặng đến chỗ an vui cực lạc, chớ khá tự cao đứng hoài mỏi cẳng, "sa ngã" té rớt xuống hố ác trược, khốn nạn và tai họa không nên vậy.
Cách ngôn : Công lý hơn pháp luật !
Hiền nhân chăm tu học, quý hơn là "sự lo toan ăn chỗ ở..."
Thế là ai ai cũng cần nên phải biết hiểu về "công lý" hết.
Tổ sư Minh Đăng Quang; Patriarch Minh Dang Quang

KINH PHƯỚC THÍ
Thành kính là phước báu.
Quên mình là cội phước.
Phước là sự bố thí.
Cầu xin cho tín chủ mau đến quả trì giới.
Phước thí là con đường nhẫn nhục.
Cầu xin cho tín chủ mau đến quả thiền định.
Phước thí là con đường tinh tấn.
Cầu xin cho tính chủ mau đến quả trí huệ.
Phước thí là con đường vô lậu.
Cầu xin cho tín chủ mau đến quả chơn như.
Phước thí là con đường giải thoát.
Cầu xin cho tín chủ mau đến quả an lạc.
Phước thí là hạng người, Thần, Trời.
Cầu xin cho tín chủ mau đến quả Niết bàn.
Phước thí thuận xuôi theo nguồn chơn lý, là sự gieo trồng giống lành vào ruộng phước.
Phước thí sống lâu, sắc tốt, yên vui, sức mạnh và trí huệ.
Phước thí sẽ giàu sang, quan, quyền, vua, chúa, sự sung sướng thanh nhàn của cõi Trời.
Phước thí là bến bờ núi báu, cù lao châu ngọc, lầu đài, xe cộ, của quí cõi sống no vui.
Phước thí là hạnh phúc cao thượng, trong sạch, yên lặng, sáng suốt và chơn không.
Phước thí là chơn Phật, thân Thánh, đầu người, nhơn từ, quảng đại, lễ hiếu, thiện nền.
Cầu cho tín chủ phát lòng không trên, chánh đẳng chánh giác thêm lên.
Trời thần kỉnh phục, Tiên Thánh mến vì.
Chư Phật vừa lòng, gương lành đáng kể.
Phước huệ gồm thâu, ý nguyện toại cầu.
Phiền não đoạn tuyệt, ô nhiễm tránh xa,
Cúng thí là người Bồ Tát.
Cầu xin cho chư Bồ Tát, mau đến quả Như Lai.
Cúng dường nơi Tam Bảo.
Cầu xin cho tín chủ mau đến quả Phật Pháp Tăng.
*&*
BÀI THỌ THỰC-DƯỠNG ; REAL-NUTRITION LESSON
Bát cơm ai sắm cực lòng, ;
Who buys rice bowls hard,
Ta ăn phải nhớ tầm công ơn người.
We must remember to remember the merit of people.
Vì nguồn sống phải mượn hơi,
Since the source of life has to borrow steam,
Cũng như chén thuốc chữa nơi bệnh tình.
As well as a medicine cup for sickness.
Dưỡng nuôi : trước độ thân mình,
Nurturing: before the body level,
Sau lo độ tận chúng sanh mê lầm.
After worrying about being deluded beings.
Thức ăn nầy từ đâu đem đến,
Where did this food come from,
Phải chăng vì người mến đạo lành ?
Is it because people love good faith?
Thương ai chín chắn tu hành,
Love anyone who is mature and spiritual,
Thảo lòng, nhịn miệng kỉnh thành, kính dâng !
Talk hearted, hold your mouth respectfully, respectfully offer !
Tay thọ lãnh bâng khuâng tự nghĩ,
The long-life hand thought casually,
Đức hạnh mình thọ thí đáng không ?
Is the virtue of my life worthwhile?
Món vay & món trả phải đồng,
Loans & Payables in VND,
Người dâng vật quí là mong phước lành.
People who offer precious things are hoping for blessings.
Ngăn tham luyến, không sanh lòng quấy,
Prevent attachment, do not generate love and harassment,
*&*
Dứt lỗi lầm chẳng thấy miếng ăn.
End the mistake of not seeing the food.
Lẽ nào tập tánh khó khăn,
Could it be difficult to practice,
Chìu theo khẩu nghiệp tự trăn trói mình.
Leading by the karma to tie himself up.
Cơm như món thuốc linh chữa bịnh,
Rice is like a healing remedy,
Ta người đau phải tính phương châm.
We must calculate the motto.
Tạm dùng nhưng chẳng luyến tâm,
Temporarily use but not mind,
Đã không tham nhiễm nào lâm tội tình ?
Did not fall in love with any crime ?
Giờ thọ thực nhắc mình tinh tiến,
Real life time reminds me to be progressive,
Lập đạo thành , chí nguyện mới thành.
Establishing a religion, a new aspiration.
Độ ! rồi cả thảy chúng sanh,
Degree! then all sentient beings,
Cũng như thọ hưởng phước lành hôm nay.
As well as enjoying today's blessings.
Tổ sư: Minh Đăng Quang ; Patriarch: Minh Dang Quang
Video có phụ đề tiếng Anh; Videos with English subtitles.
(Rèn luyện: mở, nghe, dừng lại...nhìn "phụ đề" gõ lại.; Practice: open, listen, stop...look at "subtitles" and type again.; Sau đó tập đọc tiếng Anh cho Robot nghe và ghi lại...; Then practice reading English for the Robot to listen and record...; Bật chức năng "nghe đọc: dịch bằng giọng nói" nơi ô trang Google dịch...nhìn xem: kết quả mà bạn đọc.; Turn on the "listen to read: translate by voice" function where the Google translate page...see: the result you read.; Robot sẽ nghe bạn đọc và ghi lại, như thế nào.; ....The robot will listen to you read and record, like.):( Sadhguru Jagadish Vasudev Answers);( 
Sadhguru: There are no subtractions and divisions in our mind, there is only addition and multiplications.; Không có phép trừ và phép chia trong tâm trí chúng ta, chỉ có phép cộng và phép nhân.; 'I will remove negative thoughts and I will have positive thoughts,'; "Tôi sẽ loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực và tôi sẽ có những suy nghĩ tích cực"; all the best, it's not going to work. It's just that you need to pay little attention as to how all the best, it's not going to work.; tất cả những gì tốt nhất, nó sẽ không hoạt động. Chỉ là bạn cần chú ý một chút là làm thế nào để mọi thứ tốt nhất, nó sẽ không hiệu quả.; It's just that you need to pay little attention as to how it functions.; Chỉ là bạn cần chú ý một chút là nó hoạt động như thế nào.; You will see there is a distinction between what is you and what you have gathered.; Bạn sẽ thấy có sự phân biệt giữa những gì là bạn và những gì bạn đã thu thập được.; How to Remove Negative Thoughts?; Làm thế nào để loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực? 
____ Well, see the way the question is asked and also the way normally it's addressed is, people think there is something called as a negative thought and positive thought.; Chà, hãy xem cách mà câu hỏi được đặt ra và cũng là cách nó được giải quyết thông thường, mọi người nghĩ rằng có một thứ gọi là suy nghĩ tiêu cực và suy nghĩ tích cực.; They want to remove the negative thoughts and have only positive thoughts.; Họ muốn loại bỏ những suy nghĩ tiêu cực và chỉ có những suy nghĩ tích cực.; For such people, I would ask them to just experiment for fifteen seconds.; Đối với những người như vậy, tôi sẽ yêu cầu họ chỉ thử nghiệm trong mười lăm giây.; Let them forcefully remove one thought from their mind.; Hãy để họ mạnh mẽ loại bỏ một ý nghĩ ra khỏi tâm trí của họ.; For example,
  • Trả lời Email; Reply an email: Bạn hãy vào cửa hàng trực tuyến Google Chrome: thêm chức năng Good. Word. Guide (có biểu tượng chữ D màu xanh); Go to the Google Chrome web store: add the Good Word Guide function (with a blue D icon):(Link : Cửa hàng trực tuyến Chrome ; Bôi-chọn 1 từ nào đó, bảng từ vựng xuất hiện.; Highlight-select a certain word, the vocabulary sheet appears.; Bấm vào "loa" sẽ nghe được giọng đọc tiếng Anh.Click on "speaker" to hear the English voice.; 
  • Link : Nàng Covid-19 ơi ! ; Link: Vấn đề nhạy cảm ; Sensitive issues - Next  Nhớ dùng với trang=> Học Từ Vựng.
Voc.
method
 
/'meθəd/  (n.)  ;
method /'meθəd/ (n.) a way of doing something, especially a systematic way; implies an orderly logical arrangement (usually in steps); một cách để làm một cái gì đó, đặc biệt là một cách có hệ thống; ngụ ý một sự sắp xếp hợp lý có trật tự (thường là theo từng bước); Synonyms: method acting; Từ đồng nghĩa: phương pháp hành động.
____ Nó sẽ thường trú trên thanh công cụ Chrome, biểu tượng tiện ích D (màu xanh). Bạn kích chuột vào nó một 
bảng sổ: sẽ xuất hiện, bạn gõ từ vựng tiếng Anh vào ô Define (Định nghĩa)...; Kích chuột vào Define; Tự điển của Good.Word.Guide sẽ xuất hiện...copy nội dung và chuyển dịch chúng sang Anh ngữ. Vấn đề là thông qua 1 câu định nghĩa ấy: tương ứng một từ nào? Bạn lại đối chiếu với bất cứ tự điển nào...tìm ra chúng, từ vựng tương ứng là gì ?
____ It will reside on the Chrome toolbar, the D (blue) extension icon. You click on it, and a window will appear, enter English words in the Define box...; Click on Define; The Good.Word.A guide dictionary will appear...copy the contents and translate them into English. The problem is though that one definition sentence: which one word corresponds to? You check with any dictionaries...find them out, what's the corresponding vocabulary?; Ex.; Vd.:
example/i'gzæmpəl/n.; (Noun); ví dụ; thí dụ; đồ mẫu; gương mẫu, mẫu mực; nêu gương-(xấu) (noun: example; plural noun: examples => exemplary to follow; gương mẫu noi theo);( tiếp vĩ ngữ---ary:...?!?...(---ary)
1. an item of information that is typical of a class or group:; một mục thông tin đặc trưng của một lớp hoặc nhóm:; This patient provides a typical example of the syndrome.; There is an example on page 10.
2. a representative form or pattern: I profited from his example.
3. something to be imitated.; một cái gì đó để được bắt chước. (đồ mẫu)
4. punishment intended as a warning to others:; hình phạt nhằm mục đích cảnh báo những người khác: (nêu gương-xấu); They decided to make an example of him.; Họ quyết định làm một nêu gương (xấu điển hình) về anh ấy.
5. an occurrence of something:; sự xuất hiện của một cái gì đó:; But there is always the famous example of the Smiths.; Nhưng luôn có một ví dụ nổi tiếng của Smiths.
6. a task performed or problem solved in order to develop skill or understanding:; một nhiệm vụ được thực hiện hoặc vấn đề được giải quyết để phát triển kỹ năng hoặc hiểu biết: (gương mẫu)You must work the examples at the end of each chapter in the textbook.; Bạn phải làm việc với các ví dụ ở cuối mỗi chương trong sách giáo khoa.
Động từ: 1. be illustrated or exemplified.; 1. được minh họa hoặc ví dụ; Ex: the extent of Allied naval support is exampled by the navigational specialists provided.; Ví dụ: mức độ hỗ trợ của hải quân Đồng minh do các chuyên gia hàng hải cung cấp. (to be example: mức độ)
PHẦN I ; PART I
Lời giới thiệu – H. Miller; Introduction – H. Miller
Lời tựa – A. Huxley; Preface – A. Huxley
Chương 1: Phần mở đầu – J. Krishnamurti
Chapter 1: The Prologue – J. Krishnamurti
Chương 2: Chúng ta đang tìm gì?
Chapter 2: What are we looking for?
Chương 3: Cá thể và xã hội
Chapter 3: Individuals and society
Chương 4: Tự tri 
Chapter 4: Self-knowledge
Chương 5: Hành động và ý tưởng
Chapter 5: Actions and Ideas
Chương 6: Tín ngưỡng
Chapter 6: Faith
Chương 7: Nỗ lực
Chapter 7: Effort
Chương 8 : Mâu thuẫn
Chapter 8: Conflict
Chương 9 : Bản ngã là gì?
Chapter 9: What is the ego?
Chương 10 : Sợ hãi
Chapter 10: Fear
Chương 11 : Đơn giản
Chapter 11: Simple
Chương 12: Trực-thức
Chapter 12: Direct-consciousness
Chương 13: Dục vọng
Chapter 13: Lust
Chương 14: Tương giao và cô lập
Chapter 14: Relationships and Isolation
Chương 15: Người tư tưởng và tư tưởng
Chapter 15: Thinkers and Thoughts
Chapter 16: Can thought solve our problems?
Ex.: Chapter 16: Can thought to solve* our problems?
Note*: To solve là hình thức nguyên mẫu của động từ chưa chia thì trong tiếng Anh, bao gồm: văn nói và văn viết.; Sau khi được phần mềm garmmarly.com,  đã gợi ý chỉnh sửa về việc "sai văn phạm" của nó thiếu "to"...một cách nói nhấn mạnh trong thực dụng về Anh ngữ. (Mà ngay cả Pháp ngữ hay vài ngôn ngữ khác cũng vậy...):( Ngữ điệu và cách phát âm lên giọng và hạ giọng trong 1 từ vựng hay trong một câu nói...Chúng ta đang nói về dấu nhấn trong phiên âm quốc tế.; Intonation and pronunciation raise and lower the voice in a word or in a sentence...We are talking about accent marks in international phonetic transcription.; Cấu trúc về các loại động từ khiếm-khuyết-modal verbs: "can, could, maybe, may and be allowed to" sau nó là động từ không có "to". Nhưng trong cụm từ "Tư tưởng có thể giải quyết"...thì nếu không có "to" là sai văn phạm: do từ Google dịch...copy và dán vào.; Do vậy kiểm chứng lại văn bản:; Link : Nguyên ngữ : The First and Last Freedoom. ; Một lý luận đưa ra thông tin, chúng ta nhận thông tin và kiểm chứng: Chương 16. CHAPTER 16 ’CAN THINKING SOLVE OUR PROBLEMS?’. ; Như vậy, việc đưa ra "sai văn phạm" là điều không đúng và chúng ta có thêm "to" trong văn nói "nhấn mạnh" thì cũng không sai. Cả hai cùng đúng. TÓM LẠI: phần mềm grammarly.com đưa ra, đồng ý hay không? Hoặc chọn "Dismiss-bỏ qua" là do chúng ta. Vai trò của phần mềm grammarly là "sự tương tác" trợ giúp chúng ta quyết định việc: đúng hay sai trong tiếng Anh.; The role of grammarly software is "interaction" to help us decide: right or wrong in English.
____ modal verbs: động từ phương thức: GRAMMAR; Danh từ 1. an auxiliary verb that expresses necessity or possibility. English modal verbs include must, shall, will, should, would, can, could, may, and might.; một động từ phụ thể hiện sự cần thiết hoặc khả năng. Các động từ phương thức tiếng Anh bao gồm must, shall, will, should, would, can, could, may, and might.
____  Link: (động từ phụ; thuật ngữ trợ động từ; auxiliary verb terms; auxiliary /ɔːɡˈzɪliəri/(adj.) là một thuật ngữ rất quan trọng trong cấu trúc câu, vì nó là thành phần của cấu trúc 12 thì trong tiếng Anh.
Grammarly: Những thứ cơ bản: The basics
Misspellings and grammatical errors can affect your credibility. The same goes for misused commas and other types of punctuation. Not only will Grammarly underline these issues in red, but it will also show you how to correctly write a sentence.
Lỗi chính tả và lỗi ngữ pháp có thể ảnh hưởng đến uy tín của bạn. Tương tự đối với dấu phẩy bị sử dụng sai và các loại dấu câu khác. Grammarly không chỉ gạch chân những vấn đề này bằng màu đỏ mà còn hướng dẫn bạn cách viết một câu chính xác.
Blue underlines indicate that Grammarly has spotted an unnecessarily wordy sentence. You'll find suggestions that can help you effortlessly revise a wordy sentence.
Gạch chân màu xanh lam cho biết Grammarly đã phát hiện ra một câu dài dòng không cần thiết. Bạn sẽ tìm thấy các gợi ý có thể giúp bạn sửa lại một câu dài một cách dễ dàng.
But wait...there's more?; Nhưng xin chờ chút nữa?
Grammarly Premium can give you very helpful feedback on your writing. Passive voice can be fixed by Grammarly, and it can handle classical word-choice mistakes. It can also help with inconsistencies such as switching between e-mail and email or the U.S.A. and the USA.
Grammarly Premium có thể cung cấp cho bạn phản hồi rất hữu ích về bài viết của bạn. Grammarly có thể sửa giọng bị động và nó có thể xử lý các lỗi chọn từ cổ điển. Nó cũng có thể giúp giải quyết những mâu thuẫn như chuyển đổi giữa e-mail và email hoặc Hoa Kỳ và Hoa Kỳ.
It can even help when you wanna refine ur slang or formality level. That's especially useful when writing for a broad audience ranging from businessmen to friends and family, don't you think? It'll inspect your vocabulary carefully and suggest the best word to make sure you don't have to analyze your writing too much.
Nó thậm chí có thể hữu ích khi bạn muốn tinh chỉnh tiếng lóng hoặc mức độ trang trọng của mình. Điều đó đặc biệt hữu ích khi viết cho nhiều đối tượng, từ doanh nhân đến bạn bè và gia đình, bạn có nghĩ vậy không? Nó sẽ kiểm tra từ vựng của bạn một cách cẩn thận và đề xuất từ ​​tốt nhất để đảm bảo (chắc chắn) bạn không phải phân tích bài viết của mình quá nhiều.
*&*
Chương 17: Tác dụng của tâm trí
Chapter 17: Effects of the mind
Chương 18: Tự lừa gạt
Chapter 18: Self-deception
Chương 19: Sinh hoạt vị ngã
Chapter 19: Self-centered life
Chương 20: Thời gian và biến chuyển
Chapter 20: Time and Change
Chapter 21: Power and Expression
Hình minh họa chọn "tiện ích: độ tương phản cao"; Illustration selects "utility: high contrast"
Độ tương phản cao
qrcode_blogger.googleusercontent.com; 
Chú thích: chức năng việc bôi chọn, để xuất hiện bảng sổ dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, hay ngược lại.
Note: the selection function, to appear the translation table from Vietnamese to English, or vice versa.
Chúng ta vào +> cửa hàng Chrome trực tuyến, chọn thêm tiện ích "Google dịch"; We go to the Chrome web store, choose to add the "Google translate" utility; (nhập cụm từ "Google translate" vào ô tìm kiếm trong cửa hàng; enter the phrase "Google translate " in the store search box); Và, mặc dù chúng ta dùng cổng trình duyệt "Cốc Cốc" của Việt Nam: vẫn thêm tiện ích "google dịch" vào thanh công cụ của Cốc Cốc.; And, even though we use the Vietnamese browser port "Coc Coc": still add the "google translate" utility to Coc Coc's toolbar.; Link : Sách Good Word Guide (pdf.);
Google Dịch
____ Đặc điểm văn phạm; Grammar features:
      Theo cấu trúc câu: chủ ngữ + động từ (vị ngữ)+ bổ túc từ; According to the sentence structure: subject + verb (predicate) + complement wordNói về sự hòa hợp của chủ ngữ và động từ chia thì.; Talk about the harmony of the subject and verb conjugation.Quy tắc: nếu chủ ngữ số nhiều thì động từ chia trong câu là số nhiều.; Rule: if the subject is plural, the verb in the sentence is plural.; Trong đó có sự ngoại lệ: một số từ số nhiều như: tất cả, mọi thứ...vv. "with a singular verb"; "với một động từ số ít."; (Theo như tự điển đã chú thích.As the dictionary noted.);(Tra tự điển Oxford Learner's Dictionaries, ta có như sau:; Looking up the dictionary, Oxford Learner's Dictionaries, we have the following:
___ 
(?).- 教 giáo ; buddhist teaching ; lời dạy của phật
"nhầm"?...Link: đọc trang Blog nầy, nhớ dùng với trang=> Học Từ Vựng