Thứ Bảy, 8 tháng 4, 2023

RTT13. ĂN CHAY; VEGETARIAN

Đề tài: giảng luận số 13 (mười ba)
Topic: lecture number 13 (thirteen)
ĂN CHAY; VEGETARIAN
Tác giả: MINH ĐĂNG QUANG 
Author: MINH DANG QUANG
&&
Theo phiên bản, xuất bản năm 1993; By version, published in 1993; Hiệu chỉnh và dịch sang Anh ngữ, học trò nầy: tự học tiếng Anh-LÊ ĐỨC HUYẾN; Editing and translating into English, this student: self-study English-LE DUC HUYEN (Trang 196; Page 211)
*&*
1.6 Chánh niệm: Thọ bát cơm chay
1.6 Mindfulness: Enjoy a bowl of vegetarian rice
    Ăn Chay theo chữ Hán [食; eat] [齋 ; purify] gọi là "thực-trai", đây có nghĩa là miếng ăn trong sạch vậy!; Vegetarian according to Chinese characters [食; eat] [齋 ; purify] called "real-boy", this means pure food!; Như theo tiếng nói: Người con trai, cây trai, hột ngọc trai.; As according to the voice:  A son, a tree, a pearl.; Trai tân nghĩa là tinh khiết trong sạch chẳng dính dơ.; Virginity means pure, clean, not dirty.; Bởi tiếng “TRAI” nói chệch giọng nói thành “CHAY”.; Because the voice "TRAI" deviates from the voice to "CHAY". ☑
          Ăn chay là trong sạch với miếng ăn, không tham ăn, không mơ vọng ăn, không cố chấp kén chọn miếng ăn, tâm không nhơ bẩn vì miếng ăn, không để miếng ăn bôi trây tâm hồn nhơ bẩn.; Vegetarianism is pure with food, not greedy for food, not dreaming of eating, not stubbornly picky about food, mind is not dirty because of food, do not let food stain the dirty soul.; Cái lưỡi không thích vị ngon, gọi là "thiệt-căn" thanh tịnh.; The tongue does not like the delicious taste, called "real-base" pure.; (Trong tiếng Việt, nói: "thiệt", hay đọc là "thực", có cùng một nghĩa như nhau.; In Vietnamese, saying "really", or reading "real", has the same meaning.; Theo tiếng Anh, chữ "really" là trạng từ và chữ "real" là tính từ, trạng từ và nó cũng vừa là danh từ.; In English, the word "really" is an adverb and the word "real" is an adjective, an adverb and it is also a noun.); Không ô nhiễm vị trần, vì vị trần là mùi vị của miếng ngon làm cho tâm trí bị bó hẹp, dơ dáy xấu xa, đen tối trở nên ác tà.; Do not pollute the taste of the earth, because the taste of the earth is the taste of delicious food that makes the mind narrow, dirty, evil, and dark.; Cho nên, gọi vị ngon là bùn bụi, mà kẻ nào đã biết mình học tu, muốn tấn hóa và giải thoát phiền não.Therefore, calling delicious taste is mud, but those who know they study and practice, want to improve and liberate their afflictions.; Họ phải xem món ngon là thường rẻ, và hạ nó xuống hai bên và dưới chân của tấm lòng thì mới mong làm nên công nghiệp, hoặc học hành và đắc đạo quả được. ; They have to consider delicious food often cheap, and lower it to the sides and feet of the heart in order to hope to make an industry, or study and attain the Way.  
          Con trẻ hay ham miếng mồi ngon, thú, cỏ, cây vì miếng ăn ngon mà phải chết khổ, hơn loài người, nếu vì món ăn mà phải lộn gan lên đầu. Con người mà nếu miếng ăn không rồi, không xong, thì có nên được sự việc gì đâu. Vẫn hay rằng: Miếng ăn là chủ mạng sống, nhưng nếu kẻ nào bị nó bao phủ trọn đời ra không khỏi, thì có khác nào bị nhốt trói hành phạt trong địa-ngục a-tỳ cất đầu lên sao cho được! Miếng ăn vật-chất là bà mẹ hiền của chúng-sanh, mà nó cũng là nấm mồ chôn giết chúng-sanh, nếu kẻ nào đã lớn khôn rồi mà chưa chịu đứng đi rời xa bỏ nó. Cho nên tội của miếng ăn là ác, vì nó mà lắm kẻ phải chết với nhau, biết dùng nó thì cứu được mạng ta lúc đầu, mà khi không biết dùng, thì nó sẽ giết hại cả tâm trí chúng ta về sau, tùy nơi người xử dụng.
       Miếng ăn là vật-chất trong tứ-đại, và là bà mẹ sanh ra tất cả, và rồi trở lại ăn hại tất cả, cũng như một bà mẹ khi mới sanh ra một đứa con là thiện tốt, nhưng lúc trở về già thì bắt đứa con nuôi lại, do đó đứa con sẽ trở nên tội ác, gian tà để lo cho bà mẹ trả lại mà thân tâm trí của nó phải chết khổ điên cuồng.Vì vậy nên gọi rằng bà mẹ thiện lúc đầu, ác lúc về sau, rốt lại cả hai đều chết không, tất cả, chẳng có nên tuồng trò, sự lợi ích gì cho ai được nhờ. Cũng như cỏ cây sanh nơi đất, rồi chết trở về thành đất, tiêu hình, vô dụng, cũng như miếng ăn nuôi sống mà người lại đứng, ngồi, nằm một chỗ, để cung phụng lại cho miếng ăn mà đền ơn, giống như là khi chết rồi thì xác thân rã làm phân nước, để sanh ra miếng ăn trả lại. Cũng như quỉ mẫu sát tử là quỉ mẹ sanh con, sanh ra rồi được bao nhiêu, là ăn hết trở lại, nên không bao giờ có được nối hậu về sau, ích lợi cho ai chi cả. Cũng như lắm kẻ hiểu lầm chữ hiếu là lòng tốt, mà cha mẹ khi đã già, con lại niếu kéo trở lại hành-phạt không cho cha mẹ tấn-hóa bước lên, lấy nể thương yêu luyến-ái mà bắt ở lại, đặng cung-cấp miếng ăn bù đấp cho đến ngày chết, thì đứa con cũng đã hư già, đã vô dụng cho chúng-sanh không ai nhờ được, lại còn chiều theo miệng lưỡi, của cha mẹ già, mà đứa con không tội ác nào, không điều tà quấy nào lại chẳng dám làm, nó đã gian ác hại đời mà còn lắm khi chết khổ thân mạng, tâm trí hoại hư, thật là đáng tiếc. 
        Đó là sự cho vay trả nợ, thuyết đi ngược với chơn-lý võ trụ, mà lắm kẻ làm cha mẹ bắt buộc đòi hỏi, còn làm người con cháu vô-minh, tự gán cho mình cái trách nhiệm to, là phải lo đền đáp cho đúng câu thi ân cầu báo, là mượn của là phải trả lời. Xẩn bẩn vì nhau, không rồi xong chi hết, mãi mãi ở trong cái ác cái tham cái ăn, xem coi miếng ăn làm trọng, mà nào ai có hiểu đâu, lẽ thật của đời là đi tới tiến-hóa, bỏ thấp lên cao, bỏ cũ lấy mới, thi ân bất cầu báo, nuôi con tức đền ơn cha mẹ, dạy chúng-sanh mới đền ơn tứ-đại, mà kẻ cha mẹ già phải lo đi tu học, để làm Trời Phật, cao khỏi lớp người không nhận lấy sự trả ơn vô lý không rồi của trẻ con. Còn mình thì mang công ơn của đất nước, lửa, gió, cỏ, cây, thú, người, Trời Phật, mà trái lại không lo đền đáp, chẳng ai kể ơn với ta, mà ta lại đền ơn kẻ khác sái với lẽ chung, chung sống cho nhau, và lại khư khư chấp riêng tình nghĩa nơi một người mà vong ân bất tín cùng muôn họ, chẳng là trái ngược, bất hiếu, tội ác lắm ru.
         Đành rằng cỏ, cây, thú không có trí, hoặc chẳng biết đi tránh khỏi, chớ với trí-hóa hành-vi nơi nhơn loại, há đi lại ở đó mà chịu trận hay sao? Than ôi! thật là dốt nát, thật là tội ác, thật là lụn bại biết bao nhiêu! Đáng thương cho người đời, vì lắm sự không rồi mà mãi lo đeo-đuổi, lắm sự thất bại, mà mãi làm hoài, lắm sự đi ngược mà không chịu bỏ, lắm sự ác mà mãi không chừa, đã biết chết khổ vô-ích, mà mãi lũi lầm không hề lui lại, những kẻ ấy mãi đi theo lòng kiêu-căng hợm-hĩnh, mà nào có chịu sự phân biệt, sự thiện ác chi chi, hay cũng là lẽ xuôi thuận, hoặc khổ ngược nghịch, nên hư, phải quấy..
       Cái lưỡi đối với vị trần, miếng ăn không chưa đủ, người mà muốn bước lên Trời, Phật, thì sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nơi người phải cho trong sạch, chớ cho lục trần, sắc, tiếng mùi vị, sự xúc-động và các pháp thâm-nhiễm, phải bỏ ra cái tốt và đừng ham cái xấu, đặng đừng cho sáu thức biết sanh ra dục vọng, thì mới được yên-vui tinh-tấn học tu, và làm người Hiền Thánh, như kẻ học trò khó mới nên công.
       Vậy nên Phật dạy chư Tăng Hiền-sĩ, phải giữ-gìn sáu căn trong sạch, nơi đó phải giải-thoát tránh xa điều phiền não của sự ăn mặc ở bịnh, để định tâm lo học, rảnh trí lo tu. Thế nên đối với chư Khất-Sĩ, là bậc đã giải-thoát xuất-gia, đem mình bước tới cõi Phật, hằng giữ-gìn miếng ăn từ chút, chẳng cho vì nó mà phải bận tâm như trẻ nhỏ, đặng để thời giờ quán xét việc chúng-sanh, tìm pháp-lý mở mang trí-huệ, giải cứu cho người đời. Nên sự ăn chay trong sạch của các Ngài là ngày ăn một bữa ngọ trưa có chi ăn nấy, món ăn bằng rau trái, ăn trộn lộn xộn chẳng phân mùi vị, đi xin ăn để tránh sự nấu nướng vọng tâm. Đem pháp thí cho người, xin đổi lại miếng ăn nuôi mạng sống, tự người hảo tâm biết ơn mà dâng cho, chẳng hề đòi hỏi ép buộc, sáng, chiều, đêm, khuya, lòng không nhớ tưởng, chẳng dạ lo cất để dành, vì vậy, nên mới gọi là ăn chay, ăn trong sạch, là miếng ăn của người Khất-Sĩ. Hay cũng gọi là bậc Khất-Sĩ là đã chết hẳn với miếng ăn, xem coi miếng ăn như chay cứng, chết rồi ngắt chẳng đau, là như vật bỏ, chẳng cất dành quí trọng, tôn-sùng nuôi nấng nó, và không khổ lụy để bảo tồn nó nữa.
        Tiếng ăn chay là sự ăn trong sạch, khó mà kêu gọi nơi người cư-sĩ, vì người cư-sĩ là còn đang ở trong tứ-sự, ăn mặc, ở bịnh, nhốt trói hành phạt. Ngày ăn hai bữa gọi là ăn nung-hậu, ăn để nung dồi cho ngày sau có sức mạnh. Một bữa ăn mà có nhiều món đủ vị là tố-thực, là sự ăn kiểu cách tìm ngon. Hai cách ăn ấy, trong tâm chưa được trong sạch yên-lặng đặng.
         Còn như ăn thịt người, thịt thú, giết cây to để ăn, thì phải bị oan-trái oán-thù, mang ác quả , gọi là miếng ăn độc-ác. Vậy nên ăn để sống chớ không phải sống để mà ăn thì phải nên ăn một bữa, một món ăn cho dễ nuốt tạm thôi, bằng có nhiều thứ thì nên trôn lộn xộn cho bán mùi vị, mà khi ăn thì múc chi ăn nấy, không cần lựa chọn, miễn cho no bụng, mựa chớ khen chê. Đó là nói về người ở nơi làng xóm thị-thành, khi đã quen bao tử, vì miếng ăn tập lần từ thưở nhỏ, cũng là bậc Khất-Sĩ khi đi vào xóm để hóa độ người, thì ai có dâng chi độ nấy, chớ như lúc ở vườn rừng theo cổ-nhân xưa, rau trái sẵn có, ăn lấy đó đủ no lòng, tìm nấu nướng cơm ngon chi cho lắm chuyện!
         Người Khất-Sĩ ai có dâng chi độ nấy, là dâng món ăn bằng rau trái, đồ vật bỏ của cây và rau cỏ chớ chẳng phải bằng thịt máu da xương của thú người, loài đi chạy, cùng là sự giết hại cây to phá chỗ thọ-thần. Cư-sĩ thì không giết người và thú lớn, chớ Khất-Sĩ bậc thầy, cấm luôn sự giết thú nhỏ và cây to, cho đến Phật thì không bao giờ giết cỏ hay bươi đất, vì đó là sự bất công bình, lợi kỷ tổn nhơn, sanh ra nhơn quả khổ và xao-xuyến căn-rứt lương-tâm, tánh ác sẽ được nuôi sống, lớn sanh thành độc. Cũng có người gọi là chay lạt đạm-bạc thô-sơ, nghĩa là sự thờ-ơ lãnh-đạm lạt-lẽo với miếng ngon vị ngọt, là kẻ chẳng cần màng quí trọng miếng ăn, mà chẳng chịu cụng ly khua chén, so đũa với người đời giữa nơi yến tiệc.
         Ấy vậy tiếng chay lạt là sự trong sạch hiền lành để trau tâm, hay đã vì tâm đã hiền lành trong sạch mà phải ăn như vậy, chớ chẳng thể ăn sống cho mình bằng cách ác hung cấu trược được. Nên gọi rằng miếng ăn của tâm chay hay miếng ăn chay là của tâm trong sạch hiền lành vậy.
        Chính nhờ giữ-gìn miếng ăn có giới-luật đó, mà các sư được phát định-huệ, dễ dàng đạt quả yên-vui, nhờ thắng được miếng ăn, mà làm người lớn ông già, trượng phu quân-tử, và không bị sự oán thù vay trả, quả báo ác nghiệp phạt hành, thì con người mới tự chủ được.
      Có kẻ lại nói: Phật Trời xưa kia còn ăn dùng tam tịnh nhục, huống hồ mình là chúng-sanh, tha hồ ăn chi để sống, món ăn nào bổ là cứ dùng. Than ôi! Chính vì câu nói đó mà cõi đời ngày sau nầy mới trở nên rừng rậm, người ăn người, thú ăn thú, thú ăn người giết lẫn nhau, tàn-ác bạo-ngược. Nếu chúng ta hôm nay đã đưọc gọi tiếng người là lòng nhơn, không hay sát hại, thì người là kẻ không tự mình sát hại, không xúi người sát hại, không nỡ thấy sự sát hại của kẻ khác mà vui lòng, như vậy há lại đi ăn thịt uống huyết được hay sao?
         Vả chăng tam-tịnh-nhục là thứ thịt trong sạch ba điều: Một là mắt không thấy sự giết, hai là tai không nghe tiếng kêu la của sự giết, ba là không nghi người giết mạng ấy để thết đãi mình. Tam-tịnh-nhục là miếng ăn của kẻ ác, miếng ăn của trẻ con, miếng ăn của người chưa trọn thiện, chưa được lớn tâm mở trí, ấy là lời Phật dạy cho kẻ uý tử tham sanh tham ngon sướng miệng, giảm bớt ác, tập lần lẽ phải đó thôi, chớ tam-tịnh-nhục là miếng thịt thây ma, bỏ hoang sình thúi, ai mà ăn cho được? Tam-tịnh-nhục là thịt của người ta, hay là thịt của thú vật, tự họ chết bỏ không ai có giết hại, ta bằng nhịn thèm chẳng đặng, mới phải lượm xin ăn. Tuy ăn thịt thú, người, tự họ chết bỏ ấy, mà không có sự thù oán cướp giựt, vay trả quả báo hành phạt, không có sự quá ác như loài thú, cỏ, cây giết hại kẻ đang sống với nhau, mà ăn tươi nuốt sống đồng loại. Tam-tịnh-nhục không phải là miếng thịt ai làm sẵn cho ta ăn, vì một khi ta thấy miếng thịt, thì lương tri ta đã nhận ra biết là miếng thịt của kẻ bị giết, hay là tự nó bịnh chết rồi, mà nào miếng thịt bịnh chết, thây ma sình thúi, ai có đem bán hoặc ăn bao giờ? 
       Còn nếu biết sự giết chết của chúng-sanh mà ta ăn thì phạm tội sát-sanh rồi, nếu vì ta ăn mà kẻ kia mới giết thì tội ác ấy thuộc về phần ta, và linh hồn kẻ chết sẽ oán thù ta, chớ không giận người giết. Nếu ta nỡ ăn miếng thịt đó, tức là tâm ta đã ác, đã nhẫn tâm tàn bạo! Nào ai đã ăn miếng thịt, mà chẳng biết đến sự thấy giết, nghe tiếng kêu la bồi-hồi, vì miếng ăn của mình đây, mà mạng kia phải chết, hoặc bằng cách trực-tiếp, hay gián-tiếp? Huống hồ là sự xúi người giết hay thấy kẻ giết mà sao lại chẳng vui lòng? Vậy nên chỉ có tâm ác mới ăn được miếng thịt, hay là ăn thịt mới là tâm ác. Mà nếu kẻ ác như vậy, thì còn ai dám gần-gũi nương -tựa và tin cậy, thế sao có kẻ lại dám nói Phật Trời nào như vậy mà hòng dạy ai theo! Dầu sách kinh nào viết như vậy, hay ông Hiền Thánh nào dám nói như vậy, thì thử hỏi có ai dám tin nghe, rằng miếng ăn ấy là thiện chứ không ác, mà ăn thịt chúng-sanh cha mẹ là thiện chỗ nào?
          Nếu loài người chúng ta có trí và biết phân biệt sự thiện ác là cần thì nên xét rằng: Lòng nhơn không có sát-sanh tội ác và không bao giờ nỡ ăn thịt xương huyết nhục cho đành, mà gọi là tiếng nhơn người được. Còn Phật Trời thiện huệ cao trên nhơn loại, sao có kẻ lại dám ố-ngạo, đặt lời thêu dệt rằng: Phật Trời tham ăn xấu tệ, bất phải chẳng công-bình như vậy, chẳng là sự bào chữa miếng ăn huyết-nhục ngon sướng cho lưỡi miệng, mà đành lòng phỉ-báng phá hại đạo giáo của Phật Trời, đặng tự mình dễ bề ăn tươi nuốt sống thiên-hạ, bày xúi sự loạn ly!
       Sự cho ăn dùng thịt thúi ấy, là nới rộng luật răn cho kẻ bịnh yếu, cũng là sái quấy lắm rồi, chứ Phật Tăng dám đi dùng thịt thây ma ấy, lại gọi ăn mà chẳng biết mùi vị, cũng là tự bá tánh cúng dâng? Nào có ai ăn mà không biết mùi vị? Nào có ai ăn mà không biết đó là món gì? Sự không chấp miếng ăn nghĩa là ngon dở ít nhiều gì cũng được, chẳng đòi hỏi kêu nài miễn no bụng là thôi, chớ mùi vị có đâu lại chẳng biết?
      Nhưng nói tùy nơi bá tánh cúng dâng!But say it depends on the place where people make offerings! Tội nơi bá tánh chịu, nếu nói như vậy thì bá tánh cúng thí đó để cầu quả báo, cầu tội phạt hay sao, còn bá tánh muốn cầu phước mà làm tội ác, gây quả báo là bá tánh hiểu lầm, sao Phật Tăng không chịu dạy, làm thinh hay ém tội để mong ăn chẳng là Phật Tăng tội-lỗi lắm, là kẻ ác lắm. Còn bá tánh cúng như thế để tốn hao tiền của mà còn phạm giới sát-sanh là tội thứ nhứt, thì là ác tín chớ đâu phải thiện nhơn? Bằng như sợ Phật Tăng nhịn thèm, mà lo lót riêng thì ra là phe đảng dối trá cả! Vậy chúng ta hãy biết tin rằng, Phật Trời là thiện-huệ, huệ chơn-như, lời nói việc làm ý-niệm của các Ngài bao giờ cũng đúng đắn trọn lành, mà chớ nghi nan ngờ vực bậy, rất có lỗi!
        Vả lại sự ăn cắp quen tay, ăn thịt quen mồn, ngủ ngày quen mắt, giết đến người ta mà đi đánh giặc, là sự ác từ nhỏ đến lớn. Miếng ăn cũng vậy, xưa kia cổ-nhân đã bài trừ sự ăn thịt, người, mà nay lẽ nào chúng ta lại đi tập lần ăn thú, để cho quen tay miệng, mà ăn đến thịt người hay sao? Vậy chúng ta ai muốn làm nhơn người hoàn-toàn, thì chớ giết người, giết thú ăn thịt, tránh ác từ nhỏ đến lớn, mới gọi là kẻ có học tu, mà xin tha mạng chúng, để cho chữ nhơn người không thiếu kém, không phải là vô nhơn, bất nhơn phi nhơn, bỏ đạo, dấy loạn hại đời.
        Đối với chúng-sanh chung, dầu cỏ cây thú người Trời, chẳng hạn chư Phật Thánh lo đi cứu độ, ta nỡ lòng nào đi giết hại hay sao? Chúng-sanh kẻ tấn-hóa sau ta, là con cháu em trò, ta sanh trước đi trên, bổn-phận là phải lo tế-độ, chớ sao đành giết hại, anh giết em chẳng là sái luật đạo, của bà mẹ lành chung là võ-trụ lắm ru? Và biết đâu cha mẹ thí-chủ muôn đời của ta vì nghiệp-tội, bởi nuôi ta mà làm ác, mới phải bị luật trả vay, mang lông da thú, ta ăn thịt thú, là ăn mẹ cha chẳng là vong ân bội-nghĩa bất-hiếu hay sao? Theo lẽ tiến hóa…tứ-đại sanh cỏ, cỏ thành cây, cây năng sanh thú, thú tiến làm người, thì thú là mẹ của người, cổ-nhân quê mùa ở nơi lùm buội xưa, chẳng là ông bà tổ-tiên của chúng ta trong ngày hôm nay? Nên xét lại cội nguồn ấy, mà xét lại chúng ta hôm nay thân người, chớ trước kia cũng là thú, may mắn được sống sót còn đây, thì lẽ nào chẳng vì chỗ sống sót của mình, mà chẳng phát nẩy từ tâm thương xót muôn loài, mau lo đi cứu vớt, chớ có đâu giết hại cho đành?
         Vẫn hay rằng đất sanh cỏ, cỏ ăn đất, cỏ sanh cây, cây ăn cỏ, cây sanh thú, thú ăn cây, thú sanh người người ăn thú, mẹ sanh con, con ăn mẹ…là lẽ phải cho con nít, với thú cỏ cây. Lúc đầu chẳng ăn mẹ thì lấy đâu mà sống, chúng ta không thể buộc tội kẻ ở một chỗ nhỏ nhít ấy, chớ còn chúng ta hôm nay đã có trí khôn hẳn là trái ngược nào ai dám gọi ta: Con nít, thú, cỏ, cây, đâu? Nếu vậy chúng ta đã là học trò, Phật Trời Hiền Thánh rồi tức là đã biết cách tự tìm nuôi sống, đi đứng leo trèo thì đâu còn giết ăn máu thịt mẹ loài thú nhỏ kia? Chắc chúng ta không ai ỷ mình nhờ máu thịt mẹ nuôi cho lớn vóc, rồi trở lại gọi rằng, mạnh được yếu thua, đi bắt giết mẹ, em, thú, người ăn thịt! Và nếu phải vậy thì sự người ta xưng danh: Cọp, gấu, sư-tử, ngựa, voi, vịt, gà, chim, cá dơi, chuột…cùng là bông hoa cây cỏ…chẳng là sự lộn ngược, tập làm ác thú, trơ cây, bỏ kiếp thân người uổng quá!
        Đành rằng có thân thì tránh sao cho khỏi ác, và ăn chi được để sống là ăn. Nhưng chúng ta cũng phải xét rằng: Ta sống để chi? Ích-lợi cho ai nhờ? Bằng là sống rồi khổ và tội-lỗi thì nên nhớ đến lời dạy của Thánh Hiền: Thà chết trong sạch yên vui, hơn là sống nhơ-bẩn rối khổ, còn bằng chúng ta tham sống sợ chết, thì cũng nên lựa lấy món ăn nào ít tội ác một chút mà ăn, chẳng là bớt rối khổ được yên vui dễ chịu.
        Tại sao chư Phật không ăn thịt thúi của thú người? Thịt của kẻ bệnh tự nó bỏ, không thù oán mà chư Phật còn cho là ác không ăn. Vì nếu các Ngài ăn thịt đó chi cho khỏi cháu con học trò, kẻ ác đời sau lấy nê mà bắt chước, mà đi giết hại chúng-sanh, và phá hư đạo-lý, cho nên các Ngài tránh sự làm gương ấy thà chịu tập lần ăn rau trái nơi cây, nhỏ nhít, khác máu thịt, màu da, bớt sự cảm-xúc trong lương tâm hơn.
         Các loài thú vật ăn rau cỏ cũng sống mạnh dạn, thì ta cũng xác thân như thú, tập ăn rau trái cũng được và để tâm trí rảnh rang làm Trời Phật thì quí giá, chẳng hơn là xác thân trơn láng, mà tâm trí giống tựa thú dữ quỉ ma, dối giả vô cùng! Cũng như trái chín mùi, da đen xấu, mà thịt cơm ngon, hột cứng chắc, để dành đời, hơn là trái non trơn láng phì-mỹ bóng sắc mà thịt cơm chua chát, hột non trống rỗng, nếu sức cuống chết đi, thì còn chi là hột giống để dành ngày sau, thật đáng tiếc thương thay.
        Trời Phật đối với cỏ cây rau trái còn cho là tội, không nỡ đoản mạng sanh linh, dấy lòng đen ác, nên các Ngài không bao giờ ngắt hái bẻ ngang. Các Ngài không màng thân sống, không tự làm ác để nuôi thân, bởi loài người và bậc Trời quá yêu cầu Ngài nán ở dạy đạo, tự họ sắm rau trái cúng dường, Phật vì nhân-duyên níu kéo không nỡ bỏ đi, không đành lòng ác lớn, mới tạm ăn để sống nán lại. Ăn rau trái mà Ngài còn sợ sự thơm ngon chẳng dám nói ra lời khen chê, và cố lãng quên mùi vị của nó, là vì sợ e chúng-sanh chìu ý Ngài mà đi làm ác hung ngang bạo, về sau nầy vậy. Đã là cái xác thân bố-thí cho chúng-sanh rồi, là con vật của chúng-sanh nuôi để nhờ cậy dùng xài, mà Ngài còn không vui vẻ với sự ăn bất công bình ấy thay, huống hồ chúng ta có công đức gì lớn với đời lắm hay sao mà nuốt chúng-sanh lớn miếng lại khen ngon, sao đành lắm vậy? Rau trái vật bỏ mà Phật còn cho là tội tâm ô-nhiễm, chẳng dám lấy làm, chúng ta hơn gì Ngài phước-tánh có bao nhiêu mà ăn tới thịt thú, thịt người, tập làm giặc như thế?
         Còn các nhà sư đang lo tu học, nhắm mắt mà ăn, vay của chúng-sanh, vay ít nơi rau trái, loại chưa có đủ linh-hồn, thù oán mà trong tâm vẫn thấy tội, nên chẳng dám tự lấy làm, thế cũng còn mắc nợ, ngày sau phải đi giáo-hóa đền ơn, các Ngài chẳng dám tư-cao không tội, không dám ăn ngon đầy bụng thay, chúng ta lại giỏi tài gì ăn thịt…lại khen ngon, chê dở, chiên, nấu, xào, kho…để tập thói hung thần ác quỉ, thú dữ yêu-tinh chằng quái, mặt nổi gân to, mắt lồi tròng đỏ, tóc đứng, râu heo, chân như kềm sắt, tay tợ dấu đồng, nhăn nanh bậm miệng…!...Nào có nghỉ đến tánh mạng mình về sau cũng y như vậy!
        Than ôi! Trong đời nào ai có lúc rảnh để nghỉ xét lại coi mình là người gì? Sánh với hung-dữ của loài thú mình hơn hay thua sút nó? Kìa con gà mẹ cắn hột thóc, túc kêu bầy con nhỏ lại nhả cho ăn, mẹ đói con no, gà ấy mới thật nhơn người xứng đáng! Gà mẹ giữ gà con, cá mẹ giữ cá con, thú lớn binh thú nhỏ, hùm dữ chẳng ăn thịt con…ấy mới thật nhơn người đã có, vì vậy mới trở nên người. Hôm nay chúng ta lên đến làm người, lẽ nào lại tập tánh không nhơn để đi trở lại, mà nỡ bỏ bà con trên mặt đất, của tiếng nói việc làm, để cho bao người trông đợi kiếm tìm, còn mình thì chìm sâu, sâu mãi chẳng quay về! Kẻ làm ác sao chẳng xét rằng: Mình còn có thấy ai, và đang ở chung với ai không? Có ai thấy biết mình và ở chung với mình không? Ấy vậy cái sống của mình đây là đang ở đâu, và là chủng loại gì? Thử ta đặt tên ta theo hành-vi coi ta là ai cho biết! Lẽ nào quên mất bổn-căn, trối mặc cho cái chết tới đâu hay đó!
        Chúng ta nên nhớ chữ nhơn đạo, là lòng nhơn trước nhứt chớ giết hại người, đến loài thú, lần đến cây cỏ, ta tập lần nhơn-đạo, mà phải háo sanh. Thế nên người cư-sĩ phải cần sống là giữ giới sát-sanh trước nhứt, nuôi thân bằng thiện nghiệp, sống theo chánh mạng, muốn không giặc giã thì đừng làm gương giết hại, đừng tập trẻ con cầm dao, đừng nuôi thú nhà ăn thịt, đừng bán buôn gia-súc, loại có máu thịt xương da. Vì thú giống như người, giết thú được thì giết người cũng được, muốn trường thọ sống dai, thì chớ hiếp đáp ai ai. Bằng phải giết cỏ rau không thể tránh thì hằng phải xét tội-lỗi răn lòng, tìm cách tránh xa giảm bớt, càng được càng hay. Chớ nên đốn cây to, giết thân thọ-thần, phá nhà kẻ ấy, muốn được yên vui dể sống thì phải trọn lành, lành nhiều hay hơn lành ít mà đừng làm ác để phải rối khổ chết mau. Có cần điều chi thì hãy dùng lời nói ngon ngọt, cùng thời cái lưỡi, nó sẽ giết mình, là tại miếng ăn lời nói, hay là nó sẽ cứu giúp mình, là do tại lời nói miếng ăn, mà nên nhớ rằng: Sự sống chết của ta đều do lỗ miệng.
          Dầu phải giết một mạng nhỏ, để cứu số đông to, cũng phải đừng, mà nên tìm thế cách khác cho thiện hơn, chớ việc làm ác ấy quả báo tai hại lắm mà còn đời sau thiên hạ bắt chuớc noi gương gieo tai hại trong đời, có tội mãi mãi không nên vậy.
        Trong đời ai mà không tội từ nhỏ tới lớn, từ si-ngây đến khi có trí-huệ, nào có ai là Phật Thánh, ở trên không rớt xuống, mà chẳng phải ở dưới đất chun lên. Nhưng khi đã lớn khôn có trí rồi, thì lẽ nào giữ hoài theo thói trẻ con dại dột, mà chẳng biết phân phải quấy, sửa đổi hành-vi để tiến theo trình-độ của mỗi xác thân cho kịp.
           Có lắm kẻ hiểu lầm câu nói của bợm rượu, mà gọi là vật dưỡng nhơn là vật chất nuôi dưỡng lòng nhơn. Cũng như tiền của vật chất có dư đem ra bố-thí, giúp đỡ kẻ khác chung-quanh, để nuôi lòng nhơn cho mau to lớn vậy. Lòng nhơn ấy là tinh-thần, nên gọi là vật-chất để nuôi tinh-thần, những ai muốn có lòng nhơn, muốn sống bằng tinh-thần thì phải hạ bỏ vật-chất xuống bên lòng đừng coi miếng ăn là lớn, chớ đội nó lên cao, bởi thân người thân thú in như nhau, đều là tứ-đại, hoặc may có khác là chỉ tại lòng nhơn, có hay không mà thôi. Nhơn-đạo không phải gia-đình hay xã-hội, mà là đạo tâm nhơn-ái, thiện lành không sát hại, cho nên cổ-nhân xưa chẳng dám khinh khi thú vật, vì ta tự cao là đi xuống, còn nó cố gắng là sẽ đi lên, mặc dầu nó mang thân thú, chớ tâm người, Trời cũng có và biết đâu chư Phật Thánh đang mượn thân ấy để dạy đạo, mà ta dám coi rẻ hay sao? Các mạng sống nhỏ ấy ta kêu là thú vật, là bởi đời sống của nó không có trí chẳng thấy nẻo xa gần, chỉ biết buông dâm lạc thú tìm ăn, chui nhủi trong sình lầy chẳng phân dơ sạch. Ấy cũng vì thú vui nơi vật-chất, mà mất cả trí tâm Thánh nhơn đặt gọi như thế là để khuyên răn nơi loài người ta đó. Ai muốn có chữ nhơn người thì đừng ham lạc thú trong vật-chất, và cái vui thanh-nhàn, vui giải-thoát mới gọi là cái vui của tâm trí lòng nhơn cao-thượng.
         Ấy vậy người sống bằng chánh-mạng giữ giới sát-sanh tập lòng nhơn đạo, gìn lưỡi trong sạch, thì miếng ăn phải thiện lành, tập lần tránh ác, để dứt khổ họa tai chẳng là hay lắm.
        Xưa cổ-nhân còn như là vật, thú ăn thịt lẫn nhau, thú ăn thú (và đến người ăn người). Hôm nay chúng ta đã có trí sáng mắt khôn, mà thấy đường tiến-hóa nên hãy chớ ăn người (để cho được nảy nở số đông) và giảm lần mạng thú, tha giết loài cây luôn, nếu được thì cũng nên nhịn ăn luôn cả cỏ, bỏ luôn đất, chừa cả nước, nín thở không-khí và đến không ăn. Cũng như trẻ nhỏ ăn thịt máu mẹ, lớn lên ăn thú, lớn nữa bỏ thú ăn cây, già thì ăn cỏ, gần chết là ăn không-khí, chết rồi là không ăn. Lẽ thật trong đời như vậy, chớ ai thèm muốn chấp tham, dục vọng, tâm vọng, sanh ác nghiệp quả báo không nên vậy, vả lại sự thích ưa nhàm chán vốn chẳng cho ta giữ hoài một món, ấy là sự tiến-hóa của miếng ăn, từ ác bước lần đến thiện, để cho chúng-sanh từ ít đến sanh nhiều, là lẽ xuôi thuận. Nào có ai cãi trái được sự biến đổi ấy đâu, mà đi chấp tranh bào chữa, giữ-gìn cho nhọc công vô-ích, sanh nảy lòng tham thành tật xấu.
          Nếu ta xét rằng, thịt ăn thịt da ăn da, xương ăn xương, máu uống máu, thân nầy ăn thân đó, nầy là mắt người, nầy là tay chân người, nầy là đầu người, nầy là tim người, nầy là gan người, nầy là ruột phổi người v. v…chiên, kho, xào, nấu để lên bàn đó, ta ngồi đó nhìn xem, nhắc lại từ tên, nhớ lại từ khi mới giết, con vật còn sống, thử hỏi tâm ta có ghê sợ không? Nếu ta ăn được là tâm ta ác lắm rồi. Ví như ta bị bắt trói, thọc cổ chặt đầu, lột da, rút xương mổ ruột bằm chả, quết nem, xẻ phanh, lóc thái v.v…nấu kho xào, luộc đem để lên bàn, dọn ăn treo bán, rồi bảo ta phải hườn hồn sống lại mà ăn, thử hỏi ta có ăn được không? Khi nãy ta kêu la, rủa chửi oán thù, đau đớn đã bị chết thảm, còn phải luộc kho, bằm, xắt để dành, hành xử, giết hại đủ cách, sự uất tức thù oán của ta sẽ đến tận đâu? Và đối với kẻ ăn lại khen ngon, chê dở, hỏi thử tâm ta giận dữ thế nào? Và sự vay trả quả báo ra sao thì biết! Thế mà trong đời , lắm kẻ vì ác mà sanh gian, gạt-gẫm trẻ con thú nhỏ, bắt nuôi cho ăn giả bộ lòng thương yêu tríu mến, để cho nó vui mừng ăn no cho mập, mau lớn, đặng bắt bán thịt, phân thây. Sự giả-dối ấy thù oán còn hơn là người làm giặc, nó vì lầm mới tức giận, chớ tự nó ở vườn rừng, nào có ai mượn ai nuôi, và nào có ai nuôi thú vật để chết chôn giùm, mà gọi là ơn thương- xót?
        Thế nên trong đời mới sanh giặc, giặc là do oan trái nhiều đời, giặc giết người cũng như người giết thú, buổi xưa kia.
        Một buổi chợ đông biết bao sanh mạng! Một bẩy lưới biết bao chim cá! Một bữa ăn nào ta đếm thử được tép nhỏ, cùng cá ròng ròng? Sao không ai vừa ăn vừa khóc hay xá nó xin-lỗi rồi sẽ gắp ăn? Mà đến khi thú giết người lại giận, giặc bắt giết lại than van…? Vậy thì Trời Phật nào có bênh-vực riêng cho loài người, bà mẹ nào tư-vị mà xử ép kẻ đàn em? Việc ấy tức là nhơn-quả vốn không sai chạy vậy, còn kẻ vô can thong-thã, nào có ai động chạm tới làm chi, chẳng là có sự sung-sướng hơn không? Thế chúng ta nên nhớ điều nầy: Giặc giết người làm giặc, mà chẳng bao giờ hại kẻ trường chay, giữ giới tu hành lương thiện. Vậy nên ta muốn mình sống, thì đừng làm cho ai phải chết!
Than ôi! miếng ăn mà người khóc, người than, miếng ăn mà người thù, người oán, ăn đầu, ăn sọ người ta, ăn óc, ăn tủy người ta, ăn phá hại nhà cửa, ăn xác thân quần áo của người ta, miếng ăn độc ác bất nhơn ăn thịt chúng-sanh, vô nhơn, phi nhơn, có đâu là phải lẽ cho loài người, mà sao chúng ta lại không chừa bỏ? Ăn là để sống, thì ăn thiện mới sống yên, chớ ăn ác độc thì làm sao mà sống được, quên cái gì cũng được chớ cái tội ác của chúng ta, sao lại đi nỡ quên, mà hại người mãi mãi!
          Lại như nếu nói về loại thuốc, thì cỏ cây há chẳng phải là loại thuốc sao? Thịt thú, thịt người mới là chất độc nhiều hơn rau cỏ. Rau cỏ để lâu hôi chua, chớ cá thịt để lâu ắt phải thúi sình, sanh trùng độc, kìa ta nên nhớ rằng: Miếng thịt xương nằm trong bao tử lâu ngày thì người phải chết, chớ rau cỏ vốn mau tiêu-hóa nhẹ nhàn, không hay sanh bịnh hoạn.
         Còn nói về chất bổ thì: Tinh-ba của nước là đất, tinh-ba của đất là cỏ, cây, thú, tinh-ba của cây là hột, tinh-ba của thú là người, tinh-ba của người là Trời, tinh-ba của Trời là Phật, từ khí đến nước, đất…đến Trời Phật đều là chất sống, có thể nuôi sống chúng-sanh. Nhưng ta có thể ăn thịt Phật và Tăng là chất bổ chót hết, và nhiều hơn hết không? Ta có thể ăn thịt Trời, thịt người, thịt thiện trí-thức không? Nếu vậy thì thịt người, thịt thú, cũng chưa phải gọi là thịt hiền thịt bổ, sao ta lại tham ăn nó mà chi? Nếu với Trời Phật ta ăn thịt cho là tội, và Phật Trời là kẻ có ích, còn chúng ta loài người lại có ích chi, cho ai nhờ và sanh ra để làm chi? Sao quỉ thần nào lại chẳng đi ăn thịt người đi, mà người lại đi tìm ăn thịt thú, còn ai bị quỉ thần bắt thì lại mau lo cúng kiến.
         Vả lại thú ăn thịt người không có tội, chứ người ăn thịt thú lỗi lớn vô cùng, vì bởi ta lớn khôn, còn nó thì nhỏ dại, nào ai đi chấp trẻ nhỏ làm chi? Cũng như Trời Phật không bao giờ bắt tội, oán thù kẻ tiểu-nhơn, ăn thịt Trời Phật không quả báo chẳng giận hờn, sao ta lại sợ chẳng dám ăn, để đi ăn thịt thú người chi cho mắc phải điều vay trả, và như đem thịt thú làm thịt người, lâu ngày thịt người mất hết, thì trách sao tánh ác lòng gian, lại chẳng nảy sanh điều tham móng dục.
           Ôi! nếu miếng ăn mà không sạch miệng, thì bổn-phận tiếng nhơn người có vẹn toàn đâu? Có kẻ lại nói: Lòng chay là đủ khỏi ăn chay. Vậy thì lòng chay là đi ăn thịt hay sao? Còn nói: Không ăn chay mới thành Phật! Thì thử hỏi có ông Phật nào đi ăn thịt người ta chăng? Vẫn hay rằng: Giữ một cái ăn không cũng là chưa đủ, nhưng mà thiếu một điều thiện, thì cũng khó trông thành Phật đặng! (Nếu hiểu rõ chỗ nầy, nào ai dám dễ duôi?)
        TÓM LẠI: IN SHORT: Nếu mạnh thì được, yếu thì thua!; If you are strong, you will win, if you are weak, you will lose!;  Là lẽ phải mạnh hơn lẽ quấy, ít phải thua nhiều.; Right is stronger than wrong, less must lose more.; Nghĩa là thiện là lẽ đông nhiều, ác  là lẽ thua ít, thì lẽ ác phải thua lẽ thiện, mà nơi loài nguời, thì phải lấy cái thiện làm đầu.; 
That is to say, good is a great cause, evil is a reason to lose a little, then evil must lose to good, but in humans, good must be first.; Vậy chúng ta ai ai chớ nên đi trái ngược, mà để phải vì nhau chết hết?; So who should we not go against each other, but to die for each other?; Trang [211]; Page [211]
               Tổ sư Minh Đăng Quang; Patriarch Minh Dang Quang


The Secret Garden; 
Khu Vườn Bí Mật

The Secret Garden; Khu Vườn Bí Mật
  • Trả lời Email; Reply an email: Bạn hãy vào cửa hàng trực tuyến Google Chrome: thêm chức năng Good. Word. Guide (có biểu tượng chữ D màu xanh); Go to the Google Chrome web store: add the Good Word Guide function (with a blue D icon):(Link : Cửa hàng trực tuyến Chrome ; Bôi-chọn 1 từ nào đó, bảng từ vựng xuất hiện.; Highlight-select a certain word, the vocabulary sheet appears.; Bấm vào "loa" sẽ nghe được giọng đọc tiếng Anh.Click on "speaker" to hear the English voice.; 
  • Link : Nàng Covid-19 ơi ! ; Link: Vấn đề nhạy cảm ; Sensitive issues - Next  Nhớ dùng với trang=> Học Từ Vựng.
Voc.
method
 
/'meθəd/  (n.)  ;
method /'meθəd/ (n.) a way of doing something, especially a systematic way; implies an orderly logical arrangement (usually in steps); một cách để làm một cái gì đó, đặc biệt là một cách có hệ thống; ngụ ý một sự sắp xếp hợp lý có trật tự (thường là theo từng bước); Synonyms: method acting; Từ đồng nghĩa: phương pháp hành động.
____ Nó sẽ thường trú trên thanh công cụ Chrome, biểu tượng tiện ích D (màu xanh). Bạn kích chuột vào nó một 
bảng sổ: sẽ xuất hiện, bạn gõ từ vựng tiếng Anh vào ô Define (Định nghĩa)...; Kích chuột vào Define; Tự điển của Good.Word.Guide sẽ xuất hiện...copy nội dung và chuyển dịch chúng sang Anh ngữ. Vấn đề là thông qua 1 câu định nghĩa ấy: tương ứng một từ nào? Bạn lại đối chiếu với bất cứ tự điển nào...tìm ra chúng, từ vựng tương ứng là gì ?
____ It will reside on the Chrome toolbar, the D (blue) extension icon. You click on it, and a window will appear, enter English words in the Define box...; Click on Define; The Good.Word.A guide dictionary will appear...copy the contents and translate them into English. The problem is though that one definition sentence: which one word corresponds to? You check with any dictionaries...find them out, what's the corresponding vocabulary?; Ex.; Vd.:
example/i'gzæmpəl/n.; (Noun); ví dụ; thí dụ; đồ mẫu; gương mẫu, mẫu mực; nêu gương-(xấu) (noun: example; plural noun: examples => exemplary to follow; gương mẫu noi theo);( tiếp vĩ ngữ---ary:...?!?...(---ary)
1. an item of information that is typical of a class or group:; một mục thông tin đặc trưng của một lớp hoặc nhóm:; This patient provides a typical example of the syndrome.; There is an example on page 10.
2. a representative form or pattern: I profited from his example.
3. something to be imitated.; một cái gì đó để được bắt chước. (đồ mẫu)
4. punishment intended as a warning to others:; hình phạt nhằm mục đích cảnh báo những người khác: (nêu gương-xấu); They decided to make an example of him.; Họ quyết định làm một nêu gương (xấu điển hình) về anh ấy.
5. an occurrence of something:; sự xuất hiện của một cái gì đó:; But there is always the famous example of the Smiths.; Nhưng luôn có một ví dụ nổi tiếng của Smiths.
6. a task performed or problem solved in order to develop skill or understanding:; một nhiệm vụ được thực hiện hoặc vấn đề được giải quyết để phát triển kỹ năng hoặc hiểu biết: (gương mẫu)You must work the examples at the end of each chapter in the textbook.; Bạn phải làm việc với các ví dụ ở cuối mỗi chương trong sách giáo khoa.
Động từ: 1. be illustrated or exemplified.; 1. được minh họa hoặc ví dụ; Ex: the extent of Allied naval support is exampled by the navigational specialists provided.; Ví dụ: mức độ hỗ trợ của hải quân Đồng minh do các chuyên gia hàng hải cung cấp. (to be example: mức độ)
PHẦN I ; PART I
Lời giới thiệu – H. Miller; Introduction – H. Miller
Lời tựa – A. Huxley; Preface – A. Huxley
Chương 1: Phần mở đầu – J. Krishnamurti
Chapter 1: The Prologue – J. Krishnamurti
Chương 2: Chúng ta đang tìm gì?
Chapter 2: What are we looking for?
Chương 3: Cá thể và xã hội
Chapter 3: Individuals and society
Chương 4: Tự tri 
Chapter 4: Self-knowledge
Chương 5: Hành động và ý tưởng
Chapter 5: Actions and Ideas
Chương 6: Tín ngưỡng
Chapter 6: Faith
Chương 7: Nỗ lực
Chapter 7: Effort
Chương 8 : Mâu thuẫn
Chapter 8: Conflict
Chương 9 : Bản ngã là gì?
Chapter 9: What is the ego?
Chương 10 : Sợ hãi
Chapter 10: Fear
Chương 11 : Đơn giản
Chapter 11: Simple
Chương 12: Trực-thức
Chapter 12: Direct-consciousness
Chương 13: Dục vọng
Chapter 13: Lust
Chương 14: Tương giao và cô lập
Chapter 14: Relationships and Isolation
Chương 15: Người tư tưởng và tư tưởng
Chapter 15: Thinkers and Thoughts
Chapter 16: Can thought solve our problems?
Ex.: Chapter 16: Can thought to solve* our problems?
Note*: To solve là hình thức nguyên mẫu của động từ chưa chia thì trong tiếng Anh, bao gồm: văn nói và văn viết.; Sau khi được phần mềm garmmarly.com,  đã gợi ý chỉnh sửa về việc "sai văn phạm" của nó thiếu "to"...một cách nói nhấn mạnh trong thực dụng về Anh ngữ. (Mà ngay cả Pháp ngữ hay vài ngôn ngữ khác cũng vậy...):( Ngữ điệu và cách phát âm lên giọng và hạ giọng trong 1 từ vựng hay trong một câu nói...Chúng ta đang nói về dấu nhấn trong phiên âm quốc tế.; Intonation and pronunciation raise and lower the voice in a word or in a sentence...We are talking about accent marks in international phonetic transcription.; Cấu trúc về các loại động từ khiếm-khuyết-modal verbs: "can, could, maybe, may and be allowed to" sau nó là động từ không có "to". Nhưng trong cụm từ "Tư tưởng có thể giải quyết"...thì nếu không có "to" là sai văn phạm: do từ Google dịch...copy và dán vào.; Do vậy kiểm chứng lại văn bản:; Link : Nguyên ngữ : The First and Last Freedoom. ; Một lý luận đưa ra thông tin, chúng ta nhận thông tin và kiểm chứng: Chương 16. CHAPTER 16 ’CAN THINKING SOLVE OUR PROBLEMS?’. ; Như vậy, việc đưa ra "sai văn phạm" là điều không đúng và chúng ta có thêm "to" trong văn nói "nhấn mạnh" thì cũng không sai. Cả hai cùng đúng. TÓM LẠI: phần mềm grammarly.com đưa ra, đồng ý hay không? Hoặc chọn "Dismiss-bỏ qua" là do chúng ta. Vai trò của phần mềm grammarly là "sự tương tác" trợ giúp chúng ta quyết định việc: đúng hay sai trong tiếng Anh.; The role of grammarly software is "interaction" to help us decide: right or wrong in English.
____ modal verbs: động từ phương thức: GRAMMAR; Danh từ 1. an auxiliary verb that expresses necessity or possibility. English modal verbs include must, shall, will, should, would, can, could, may, and might.; một động từ phụ thể hiện sự cần thiết hoặc khả năng. Các động từ phương thức tiếng Anh bao gồm must, shall, will, should, would, can, could, may, and might.
____  Link: (động từ phụ; thuật ngữ trợ động từ; auxiliary verb terms; auxiliary /ɔːɡˈzɪliəri/(adj.) là một thuật ngữ rất quan trọng trong cấu trúc câu, vì nó là thành phần của cấu trúc 12 thì trong tiếng Anh.
Grammarly: Những thứ cơ bản: The basics
Misspellings and grammatical errors can affect your credibility. The same goes for misused commas and other types of punctuation. Not only will Grammarly underline these issues in red, but it will also show you how to correctly write a sentence.
Lỗi chính tả và lỗi ngữ pháp có thể ảnh hưởng đến uy tín của bạn. Tương tự đối với dấu phẩy bị sử dụng sai và các loại dấu câu khác. Grammarly không chỉ gạch chân những vấn đề này bằng màu đỏ mà còn hướng dẫn bạn cách viết một câu chính xác.
Blue underlines indicate that Grammarly has spotted an unnecessarily wordy sentence. You'll find suggestions that can help you effortlessly revise a wordy sentence.
Gạch chân màu xanh lam cho biết Grammarly đã phát hiện ra một câu dài dòng không cần thiết. Bạn sẽ tìm thấy các gợi ý có thể giúp bạn sửa lại một câu dài một cách dễ dàng.
But wait...there's more?; Nhưng xin chờ chút nữa?
Grammarly Premium can give you very helpful feedback on your writing. Passive voice can be fixed by Grammarly, and it can handle classical word-choice mistakes. It can also help with inconsistencies such as switching between e-mail and email or the U.S.A. and the USA.
Grammarly Premium có thể cung cấp cho bạn phản hồi rất hữu ích về bài viết của bạn. Grammarly có thể sửa giọng bị động và nó có thể xử lý các lỗi chọn từ cổ điển. Nó cũng có thể giúp giải quyết những mâu thuẫn như chuyển đổi giữa e-mail và email hoặc Hoa Kỳ và Hoa Kỳ.
It can even help when you wanna refine ur slang or formality level. That's especially useful when writing for a broad audience ranging from businessmen to friends and family, don't you think? It'll inspect your vocabulary carefully and suggest the best word to make sure you don't have to analyze your writing too much.
Nó thậm chí có thể hữu ích khi bạn muốn tinh chỉnh tiếng lóng hoặc mức độ trang trọng của mình. Điều đó đặc biệt hữu ích khi viết cho nhiều đối tượng, từ doanh nhân đến bạn bè và gia đình, bạn có nghĩ vậy không? Nó sẽ kiểm tra từ vựng của bạn một cách cẩn thận và đề xuất từ ​​tốt nhất để đảm bảo (chắc chắn) bạn không phải phân tích bài viết của mình quá nhiều.
*&*
Chương 17: Tác dụng của tâm trí
Chapter 17: Effects of the mind
Chương 18: Tự lừa gạt
Chapter 18: Self-deception
Chương 19: Sinh hoạt vị ngã
Chapter 19: Self-centered life
Chương 20: Thời gian và biến chuyển
Chapter 20: Time and Change
Chapter 21: Power and Expression
Hình minh họa chọn "tiện ích: độ tương phản cao"; Illustration selects "utility: high contrast"
Độ tương phản cao
qrcode_blogger.googleusercontent.com; 
Chú thích: chức năng việc bôi chọn, để xuất hiện bảng sổ dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh, hay ngược lại.
Note: the selection function, to appear the translation table from Vietnamese to English, or vice versa.
Chúng ta vào +> cửa hàng Chrome trực tuyến, chọn thêm tiện ích "Google dịch"; We go to the Chrome web store, choose to add the "Google translate" utility; (nhập cụm từ "Google translate" vào ô tìm kiếm trong cửa hàng; enter the phrase "Google translate " in the store search box); Và, mặc dù chúng ta dùng cổng trình duyệt "Cốc Cốc" của Việt Nam: vẫn thêm tiện ích "google dịch" vào thanh công cụ của Cốc Cốc.; And, even though we use the Vietnamese browser port "Coc Coc": still add the "google translate" utility to Coc Coc's toolbar.; Link : Sách Good Word Guide (pdf.);
Google Dịch
____ Đặc điểm văn phạm; Grammar features:
      Theo cấu trúc câu: chủ ngữ + động từ (vị ngữ)+ bổ túc từ; According to the sentence structure: subject + verb (predicate) + complement wordNói về sự hòa hợp của chủ ngữ và động từ chia thì.; Talk about the harmony of the subject and verb conjugation.Quy tắc: nếu chủ ngữ số nhiều thì động từ chia trong câu là số nhiều.; Rule: if the subject is plural, the verb in the sentence is plural.; Trong đó có sự ngoại lệ: một số từ số nhiều như: tất cả, mọi thứ...vv. "with a singular verb"; "với một động từ số ít."; (Theo như tự điển đã chú thích.As the dictionary noted.);(Tra tự điển Oxford Learner's Dictionaries, ta có như sau:; Looking up the dictionary, Oxford Learner's Dictionaries, we have the following:
___ 
(?).- 教 giáo ; buddhist teaching ; lời dạy của phật