Đề tài: giảng luận số 13 (mười ba)
Topic: lecture number 13 (thirteen)
ĂN CHAY; VEGETARIAN
Tác giả: MINH ĐĂNG QUANG
Author: MINH DANG QUANG
&&
Theo phiên bản, xuất bản năm 1993; By version, published in 1993; Hiệu chỉnh và dịch sang Anh ngữ, học trò nầy: tự học tiếng Anh-LÊ ĐỨC HUYẾN; Editing and translating into English, this student: self-study English-LE DUC HUYEN (Trang 196; Page 211)
*&*
1.6 Chánh niệm: Thọ bát cơm chay 1.6 Mindfulness: Enjoy a bowl of vegetarian rice |
Ăn Chay theo chữ Hán [食; eat] [齋 ; purify] gọi là "thực-trai", đây có nghĩa là miếng ăn trong sạch vậy!; Vegetarian according to Chinese characters [食; eat] [齋 ; purify] called "real-boy", this means pure food!; Như theo tiếng nói: Người con trai, cây trai, hột ngọc trai.; As according to the voice: A son, a tree, a pearl.; Trai tân nghĩa là tinh khiết trong sạch chẳng dính dơ.; Virginity means pure, clean, not dirty.; Bởi tiếng “TRAI” nói chệch giọng nói thành “CHAY”.; Because the voice "TRAI" deviates from the voice to "CHAY". ☑
Ăn chay là trong sạch với miếng ăn, không tham ăn, không mơ vọng ăn, không cố chấp kén chọn miếng ăn, tâm không nhơ bẩn vì miếng ăn, không để miếng ăn bôi trây tâm hồn nhơ bẩn.; Vegetarianism is pure with food, not greedy for food, not dreaming of eating, not stubbornly picky about food, mind is not dirty because of food, do not let food stain the dirty soul.; Cái lưỡi không thích vị ngon, gọi là "thiệt-căn" thanh tịnh.; The tongue does not like the delicious taste, called "real-base" pure.; (Trong tiếng Việt, nói: "thiệt", hay đọc là "thực", có cùng một nghĩa như nhau.; In Vietnamese, saying "really", or reading "real", has the same meaning.; Theo tiếng Anh, chữ "really" là trạng từ và chữ "real" là tính từ, trạng từ và nó cũng vừa là danh từ.; In English, the word "really" is an adverb and the word "real" is an adjective, an adverb and it is also a noun.); Không ô nhiễm vị trần, vì vị trần là mùi vị của miếng ngon làm cho tâm trí bị bó hẹp, dơ dáy xấu xa, đen tối trở nên ác tà.; Do not pollute the taste of the earth, because the taste of the earth is the taste of delicious food that makes the mind narrow, dirty, evil, and dark.; Cho nên, gọi vị ngon là bùn bụi, mà kẻ nào đã biết mình học tu, muốn tấn hóa và giải thoát phiền não.; Therefore, calling delicious taste is mud, but those who know they study and practice, want to improve and liberate their afflictions.; Họ phải xem món ngon là thường rẻ, và hạ nó xuống hai bên và dưới chân của tấm lòng thì mới mong làm nên công nghiệp, hoặc học hành và đắc đạo quả được. ; They have to consider delicious food often cheap, and lower it to the sides and feet of the heart in order to hope to make an industry, or study and attain the Way. ☑
Con trẻ hay ham miếng mồi ngon, thú, cỏ, cây vì miếng ăn ngon mà phải chết khổ, hơn loài người, nếu vì món ăn mà phải lộn gan lên đầu. Con người mà nếu miếng ăn không rồi, không xong, thì có nên được sự việc gì đâu. Vẫn hay rằng: Miếng ăn là chủ mạng sống, nhưng nếu kẻ nào bị nó bao phủ trọn đời ra không khỏi, thì có khác nào bị nhốt trói hành phạt trong địa-ngục a-tỳ cất đầu lên sao cho được! Miếng ăn vật-chất là bà mẹ hiền của chúng-sanh, mà nó cũng là nấm mồ chôn giết chúng-sanh, nếu kẻ nào đã lớn khôn rồi mà chưa chịu đứng đi rời xa bỏ nó. Cho nên tội của miếng ăn là ác, vì nó mà lắm kẻ phải chết với nhau, biết dùng nó thì cứu được mạng ta lúc đầu, mà khi không biết dùng, thì nó sẽ giết hại cả tâm trí chúng ta về sau, tùy nơi người xử dụng.
Miếng ăn là vật-chất trong tứ-đại, và là bà mẹ sanh ra tất cả, và rồi trở lại ăn hại tất cả, cũng như một bà mẹ khi mới sanh ra một đứa con là thiện tốt, nhưng lúc trở về già thì bắt đứa con nuôi lại, do đó đứa con sẽ trở nên tội ác, gian tà để lo cho bà mẹ trả lại mà thân tâm trí của nó phải chết khổ điên cuồng.Vì vậy nên gọi rằng bà mẹ thiện lúc đầu, ác lúc về sau, rốt lại cả hai đều chết không, tất cả, chẳng có nên tuồng trò, sự lợi ích gì cho ai được nhờ. Cũng như cỏ cây sanh nơi đất, rồi chết trở về thành đất, tiêu hình, vô dụng, cũng như miếng ăn nuôi sống mà người lại đứng, ngồi, nằm một chỗ, để cung phụng lại cho miếng ăn mà đền ơn, giống như là khi chết rồi thì xác thân rã làm phân nước, để sanh ra miếng ăn trả lại. Cũng như quỉ mẫu sát tử là quỉ mẹ sanh con, sanh ra rồi được bao nhiêu, là ăn hết trở lại, nên không bao giờ có được nối hậu về sau, ích lợi cho ai chi cả. Cũng như lắm kẻ hiểu lầm chữ hiếu là lòng tốt, mà cha mẹ khi đã già, con lại niếu kéo trở lại hành-phạt không cho cha mẹ tấn-hóa bước lên, lấy nể thương yêu luyến-ái mà bắt ở lại, đặng cung-cấp miếng ăn bù đấp cho đến ngày chết, thì đứa con cũng đã hư già, đã vô dụng cho chúng-sanh không ai nhờ được, lại còn chiều theo miệng lưỡi, của cha mẹ già, mà đứa con không tội ác nào, không điều tà quấy nào lại chẳng dám làm, nó đã gian ác hại đời mà còn lắm khi chết khổ thân mạng, tâm trí hoại hư, thật là đáng tiếc.
Đó là sự cho vay trả nợ, thuyết đi ngược với chơn-lý võ trụ, mà lắm kẻ làm cha mẹ bắt buộc đòi hỏi, còn làm người con cháu vô-minh, tự gán cho mình cái trách nhiệm to, là phải lo đền đáp cho đúng câu thi ân cầu báo, là mượn của là phải trả lời. Xẩn bẩn vì nhau, không rồi xong chi hết, mãi mãi ở trong cái ác cái tham cái ăn, xem coi miếng ăn làm trọng, mà nào ai có hiểu đâu, lẽ thật của đời là đi tới tiến-hóa, bỏ thấp lên cao, bỏ cũ lấy mới, thi ân bất cầu báo, nuôi con tức đền ơn cha mẹ, dạy chúng-sanh mới đền ơn tứ-đại, mà kẻ cha mẹ già phải lo đi tu học, để làm Trời Phật, cao khỏi lớp người không nhận lấy sự trả ơn vô lý không rồi của trẻ con. Còn mình thì mang công ơn của đất nước, lửa, gió, cỏ, cây, thú, người, Trời Phật, mà trái lại không lo đền đáp, chẳng ai kể ơn với ta, mà ta lại đền ơn kẻ khác sái với lẽ chung, chung sống cho nhau, và lại khư khư chấp riêng tình nghĩa nơi một người mà vong ân bất tín cùng muôn họ, chẳng là trái ngược, bất hiếu, tội ác lắm ru.
Đành rằng cỏ, cây, thú không có trí, hoặc chẳng biết đi tránh khỏi, chớ với trí-hóa hành-vi nơi nhơn loại, há đi lại ở đó mà chịu trận hay sao? Than ôi! thật là dốt nát, thật là tội ác, thật là lụn bại biết bao nhiêu! Đáng thương cho người đời, vì lắm sự không rồi mà mãi lo đeo-đuổi, lắm sự thất bại, mà mãi làm hoài, lắm sự đi ngược mà không chịu bỏ, lắm sự ác mà mãi không chừa, đã biết chết khổ vô-ích, mà mãi lũi lầm không hề lui lại, những kẻ ấy mãi đi theo lòng kiêu-căng hợm-hĩnh, mà nào có chịu sự phân biệt, sự thiện ác chi chi, hay cũng là lẽ xuôi thuận, hoặc khổ ngược nghịch, nên hư, phải quấy..
Cái lưỡi đối với vị trần, miếng ăn không chưa đủ, người mà muốn bước lên Trời, Phật, thì sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nơi người phải cho trong sạch, chớ cho lục trần, sắc, tiếng mùi vị, sự xúc-động và các pháp thâm-nhiễm, phải bỏ ra cái tốt và đừng ham cái xấu, đặng đừng cho sáu thức biết sanh ra dục vọng, thì mới được yên-vui tinh-tấn học tu, và làm người Hiền Thánh, như kẻ học trò khó mới nên công.
Vậy nên Phật dạy chư Tăng Hiền-sĩ, phải giữ-gìn sáu căn trong sạch, nơi đó phải giải-thoát tránh xa điều phiền não của sự ăn mặc ở bịnh, để định tâm lo học, rảnh trí lo tu. Thế nên đối với chư Khất-Sĩ, là bậc đã giải-thoát xuất-gia, đem mình bước tới cõi Phật, hằng giữ-gìn miếng ăn từ chút, chẳng cho vì nó mà phải bận tâm như trẻ nhỏ, đặng để thời giờ quán xét việc chúng-sanh, tìm pháp-lý mở mang trí-huệ, giải cứu cho người đời. Nên sự ăn chay trong sạch của các Ngài là ngày ăn một bữa ngọ trưa có chi ăn nấy, món ăn bằng rau trái, ăn trộn lộn xộn chẳng phân mùi vị, đi xin ăn để tránh sự nấu nướng vọng tâm. Đem pháp thí cho người, xin đổi lại miếng ăn nuôi mạng sống, tự người hảo tâm biết ơn mà dâng cho, chẳng hề đòi hỏi ép buộc, sáng, chiều, đêm, khuya, lòng không nhớ tưởng, chẳng dạ lo cất để dành, vì vậy, nên mới gọi là ăn chay, ăn trong sạch, là miếng ăn của người Khất-Sĩ. Hay cũng gọi là bậc Khất-Sĩ là đã chết hẳn với miếng ăn, xem coi miếng ăn như chay cứng, chết rồi ngắt chẳng đau, là như vật bỏ, chẳng cất dành quí trọng, tôn-sùng nuôi nấng nó, và không khổ lụy để bảo tồn nó nữa.
Tiếng ăn chay là sự ăn trong sạch, khó mà kêu gọi nơi người cư-sĩ, vì người cư-sĩ là còn đang ở trong tứ-sự, ăn mặc, ở bịnh, nhốt trói hành phạt. Ngày ăn hai bữa gọi là ăn nung-hậu, ăn để nung dồi cho ngày sau có sức mạnh. Một bữa ăn mà có nhiều món đủ vị là tố-thực, là sự ăn kiểu cách tìm ngon. Hai cách ăn ấy, trong tâm chưa được trong sạch yên-lặng đặng.
Còn như ăn thịt người, thịt thú, giết cây to để ăn, thì phải bị oan-trái oán-thù, mang ác quả , gọi là miếng ăn độc-ác. Vậy nên ăn để sống chớ không phải sống để mà ăn thì phải nên ăn một bữa, một món ăn cho dễ nuốt tạm thôi, bằng có nhiều thứ thì nên trôn lộn xộn cho bán mùi vị, mà khi ăn thì múc chi ăn nấy, không cần lựa chọn, miễn cho no bụng, mựa chớ khen chê. Đó là nói về người ở nơi làng xóm thị-thành, khi đã quen bao tử, vì miếng ăn tập lần từ thưở nhỏ, cũng là bậc Khất-Sĩ khi đi vào xóm để hóa độ người, thì ai có dâng chi độ nấy, chớ như lúc ở vườn rừng theo cổ-nhân xưa, rau trái sẵn có, ăn lấy đó đủ no lòng, tìm nấu nướng cơm ngon chi cho lắm chuyện!
Người Khất-Sĩ ai có dâng chi độ nấy, là dâng món ăn bằng rau trái, đồ vật bỏ của cây và rau cỏ chớ chẳng phải bằng thịt máu da xương của thú người, loài đi chạy, cùng là sự giết hại cây to phá chỗ thọ-thần. Cư-sĩ thì không giết người và thú lớn, chớ Khất-Sĩ bậc thầy, cấm luôn sự giết thú nhỏ và cây to, cho đến Phật thì không bao giờ giết cỏ hay bươi đất, vì đó là sự bất công bình, lợi kỷ tổn nhơn, sanh ra nhơn quả khổ và xao-xuyến căn-rứt lương-tâm, tánh ác sẽ được nuôi sống, lớn sanh thành độc. Cũng có người gọi là chay lạt đạm-bạc thô-sơ, nghĩa là sự thờ-ơ lãnh-đạm lạt-lẽo với miếng ngon vị ngọt, là kẻ chẳng cần màng quí trọng miếng ăn, mà chẳng chịu cụng ly khua chén, so đũa với người đời giữa nơi yến tiệc.
Ấy vậy tiếng chay lạt là sự trong sạch hiền lành để trau tâm, hay đã vì tâm đã hiền lành trong sạch mà phải ăn như vậy, chớ chẳng thể ăn sống cho mình bằng cách ác hung cấu trược được. Nên gọi rằng miếng ăn của tâm chay hay miếng ăn chay là của tâm trong sạch hiền lành vậy.
Chính nhờ giữ-gìn miếng ăn có giới-luật đó, mà các sư được phát định-huệ, dễ dàng đạt quả yên-vui, nhờ thắng được miếng ăn, mà làm người lớn ông già, trượng phu quân-tử, và không bị sự oán thù vay trả, quả báo ác nghiệp phạt hành, thì con người mới tự chủ được.
Có kẻ lại nói: Phật Trời xưa kia còn ăn dùng tam tịnh nhục, huống hồ mình là chúng-sanh, tha hồ ăn chi để sống, món ăn nào bổ là cứ dùng. Than ôi! Chính vì câu nói đó mà cõi đời ngày sau nầy mới trở nên rừng rậm, người ăn người, thú ăn thú, thú ăn người giết lẫn nhau, tàn-ác bạo-ngược. Nếu chúng ta hôm nay đã đưọc gọi tiếng người là lòng nhơn, không hay sát hại, thì người là kẻ không tự mình sát hại, không xúi người sát hại, không nỡ thấy sự sát hại của kẻ khác mà vui lòng, như vậy há lại đi ăn thịt uống huyết được hay sao?
Vả chăng tam-tịnh-nhục là thứ thịt trong sạch ba điều: Một là mắt không thấy sự giết, hai là tai không nghe tiếng kêu la của sự giết, ba là không nghi người giết mạng ấy để thết đãi mình. Tam-tịnh-nhục là miếng ăn của kẻ ác, miếng ăn của trẻ con, miếng ăn của người chưa trọn thiện, chưa được lớn tâm mở trí, ấy là lời Phật dạy cho kẻ uý tử tham sanh tham ngon sướng miệng, giảm bớt ác, tập lần lẽ phải đó thôi, chớ tam-tịnh-nhục là miếng thịt thây ma, bỏ hoang sình thúi, ai mà ăn cho được? Tam-tịnh-nhục là thịt của người ta, hay là thịt của thú vật, tự họ chết bỏ không ai có giết hại, ta bằng nhịn thèm chẳng đặng, mới phải lượm xin ăn. Tuy ăn thịt thú, người, tự họ chết bỏ ấy, mà không có sự thù oán cướp giựt, vay trả quả báo hành phạt, không có sự quá ác như loài thú, cỏ, cây giết hại kẻ đang sống với nhau, mà ăn tươi nuốt sống đồng loại. Tam-tịnh-nhục không phải là miếng thịt ai làm sẵn cho ta ăn, vì một khi ta thấy miếng thịt, thì lương tri ta đã nhận ra biết là miếng thịt của kẻ bị giết, hay là tự nó bịnh chết rồi, mà nào miếng thịt bịnh chết, thây ma sình thúi, ai có đem bán hoặc ăn bao giờ?
Còn nếu biết sự giết chết của chúng-sanh mà ta ăn thì phạm tội sát-sanh rồi, nếu vì ta ăn mà kẻ kia mới giết thì tội ác ấy thuộc về phần ta, và linh hồn kẻ chết sẽ oán thù ta, chớ không giận người giết. Nếu ta nỡ ăn miếng thịt đó, tức là tâm ta đã ác, đã nhẫn tâm tàn bạo! Nào ai đã ăn miếng thịt, mà chẳng biết đến sự thấy giết, nghe tiếng kêu la bồi-hồi, vì miếng ăn của mình đây, mà mạng kia phải chết, hoặc bằng cách trực-tiếp, hay gián-tiếp? Huống hồ là sự xúi người giết hay thấy kẻ giết mà sao lại chẳng vui lòng? Vậy nên chỉ có tâm ác mới ăn được miếng thịt, hay là ăn thịt mới là tâm ác. Mà nếu kẻ ác như vậy, thì còn ai dám gần-gũi nương -tựa và tin cậy, thế sao có kẻ lại dám nói Phật Trời nào như vậy mà hòng dạy ai theo! Dầu sách kinh nào viết như vậy, hay ông Hiền Thánh nào dám nói như vậy, thì thử hỏi có ai dám tin nghe, rằng miếng ăn ấy là thiện chứ không ác, mà ăn thịt chúng-sanh cha mẹ là thiện chỗ nào?
Nếu loài người chúng ta có trí và biết phân biệt sự thiện ác là cần thì nên xét rằng: Lòng nhơn không có sát-sanh tội ác và không bao giờ nỡ ăn thịt xương huyết nhục cho đành, mà gọi là tiếng nhơn người được. Còn Phật Trời thiện huệ cao trên nhơn loại, sao có kẻ lại dám ố-ngạo, đặt lời thêu dệt rằng: Phật Trời tham ăn xấu tệ, bất phải chẳng công-bình như vậy, chẳng là sự bào chữa miếng ăn huyết-nhục ngon sướng cho lưỡi miệng, mà đành lòng phỉ-báng phá hại đạo giáo của Phật Trời, đặng tự mình dễ bề ăn tươi nuốt sống thiên-hạ, bày xúi sự loạn ly!
Sự cho ăn dùng thịt thúi ấy, là nới rộng luật răn cho kẻ bịnh yếu, cũng là sái quấy lắm rồi, chứ Phật Tăng dám đi dùng thịt thây ma ấy, lại gọi ăn mà chẳng biết mùi vị, cũng là tự bá tánh cúng dâng? Nào có ai ăn mà không biết mùi vị? Nào có ai ăn mà không biết đó là món gì? Sự không chấp miếng ăn nghĩa là ngon dở ít nhiều gì cũng được, chẳng đòi hỏi kêu nài miễn no bụng là thôi, chớ mùi vị có đâu lại chẳng biết?
Nhưng nói tùy nơi bá tánh cúng dâng!; But say it depends on the place where people make offerings! Tội nơi bá tánh chịu, nếu nói như vậy thì bá tánh cúng thí đó để cầu quả báo, cầu tội phạt hay sao, còn bá tánh muốn cầu phước mà làm tội ác, gây quả báo là bá tánh hiểu lầm, sao Phật Tăng không chịu dạy, làm thinh hay ém tội để mong ăn chẳng là Phật Tăng tội-lỗi lắm, là kẻ ác lắm. Còn bá tánh cúng như thế để tốn hao tiền của mà còn phạm giới sát-sanh là tội thứ nhứt, thì là ác tín chớ đâu phải thiện nhơn? Bằng như sợ Phật Tăng nhịn thèm, mà lo lót riêng thì ra là phe đảng dối trá cả! Vậy chúng ta hãy biết tin rằng, Phật Trời là thiện-huệ, huệ chơn-như, lời nói việc làm ý-niệm của các Ngài bao giờ cũng đúng đắn trọn lành, mà chớ nghi nan ngờ vực bậy, rất có lỗi!
Vả lại sự ăn cắp quen tay, ăn thịt quen mồn, ngủ ngày quen mắt, giết đến người ta mà đi đánh giặc, là sự ác từ nhỏ đến lớn. Miếng ăn cũng vậy, xưa kia cổ-nhân đã bài trừ sự ăn thịt, người, mà nay lẽ nào chúng ta lại đi tập lần ăn thú, để cho quen tay miệng, mà ăn đến thịt người hay sao? Vậy chúng ta ai muốn làm nhơn người hoàn-toàn, thì chớ giết người, giết thú ăn thịt, tránh ác từ nhỏ đến lớn, mới gọi là kẻ có học tu, mà xin tha mạng chúng, để cho chữ nhơn người không thiếu kém, không phải là vô nhơn, bất nhơn phi nhơn, bỏ đạo, dấy loạn hại đời.
Đối với chúng-sanh chung, dầu cỏ cây thú người Trời, chẳng hạn chư Phật Thánh lo đi cứu độ, ta nỡ lòng nào đi giết hại hay sao? Chúng-sanh kẻ tấn-hóa sau ta, là con cháu em trò, ta sanh trước đi trên, bổn-phận là phải lo tế-độ, chớ sao đành giết hại, anh giết em chẳng là sái luật đạo, của bà mẹ lành chung là võ-trụ lắm ru? Và biết đâu cha mẹ thí-chủ muôn đời của ta vì nghiệp-tội, bởi nuôi ta mà làm ác, mới phải bị luật trả vay, mang lông da thú, ta ăn thịt thú, là ăn mẹ cha chẳng là vong ân bội-nghĩa bất-hiếu hay sao? Theo lẽ tiến hóa…tứ-đại sanh cỏ, cỏ thành cây, cây năng sanh thú, thú tiến làm người, thì thú là mẹ của người, cổ-nhân quê mùa ở nơi lùm buội xưa, chẳng là ông bà tổ-tiên của chúng ta trong ngày hôm nay? Nên xét lại cội nguồn ấy, mà xét lại chúng ta hôm nay thân người, chớ trước kia cũng là thú, may mắn được sống sót còn đây, thì lẽ nào chẳng vì chỗ sống sót của mình, mà chẳng phát nẩy từ tâm thương xót muôn loài, mau lo đi cứu vớt, chớ có đâu giết hại cho đành?
Vẫn hay rằng đất sanh cỏ, cỏ ăn đất, cỏ sanh cây, cây ăn cỏ, cây sanh thú, thú ăn cây, thú sanh người người ăn thú, mẹ sanh con, con ăn mẹ…là lẽ phải cho con nít, với thú cỏ cây. Lúc đầu chẳng ăn mẹ thì lấy đâu mà sống, chúng ta không thể buộc tội kẻ ở một chỗ nhỏ nhít ấy, chớ còn chúng ta hôm nay đã có trí khôn hẳn là trái ngược nào ai dám gọi ta: Con nít, thú, cỏ, cây, đâu? Nếu vậy chúng ta đã là học trò, Phật Trời Hiền Thánh rồi tức là đã biết cách tự tìm nuôi sống, đi đứng leo trèo thì đâu còn giết ăn máu thịt mẹ loài thú nhỏ kia? Chắc chúng ta không ai ỷ mình nhờ máu thịt mẹ nuôi cho lớn vóc, rồi trở lại gọi rằng, mạnh được yếu thua, đi bắt giết mẹ, em, thú, người ăn thịt! Và nếu phải vậy thì sự người ta xưng danh: Cọp, gấu, sư-tử, ngựa, voi, vịt, gà, chim, cá dơi, chuột…cùng là bông hoa cây cỏ…chẳng là sự lộn ngược, tập làm ác thú, trơ cây, bỏ kiếp thân người uổng quá!
Đành rằng có thân thì tránh sao cho khỏi ác, và ăn chi được để sống là ăn. Nhưng chúng ta cũng phải xét rằng: Ta sống để chi? Ích-lợi cho ai nhờ? Bằng là sống rồi khổ và tội-lỗi thì nên nhớ đến lời dạy của Thánh Hiền: Thà chết trong sạch yên vui, hơn là sống nhơ-bẩn rối khổ, còn bằng chúng ta tham sống sợ chết, thì cũng nên lựa lấy món ăn nào ít tội ác một chút mà ăn, chẳng là bớt rối khổ được yên vui dễ chịu.
Tại sao chư Phật không ăn thịt thúi của thú người? Thịt của kẻ bệnh tự nó bỏ, không thù oán mà chư Phật còn cho là ác không ăn. Vì nếu các Ngài ăn thịt đó chi cho khỏi cháu con học trò, kẻ ác đời sau lấy nê mà bắt chước, mà đi giết hại chúng-sanh, và phá hư đạo-lý, cho nên các Ngài tránh sự làm gương ấy thà chịu tập lần ăn rau trái nơi cây, nhỏ nhít, khác máu thịt, màu da, bớt sự cảm-xúc trong lương tâm hơn.
Các loài thú vật ăn rau cỏ cũng sống mạnh dạn, thì ta cũng xác thân như thú, tập ăn rau trái cũng được và để tâm trí rảnh rang làm Trời Phật thì quí giá, chẳng hơn là xác thân trơn láng, mà tâm trí giống tựa thú dữ quỉ ma, dối giả vô cùng! Cũng như trái chín mùi, da đen xấu, mà thịt cơm ngon, hột cứng chắc, để dành đời, hơn là trái non trơn láng phì-mỹ bóng sắc mà thịt cơm chua chát, hột non trống rỗng, nếu sức cuống chết đi, thì còn chi là hột giống để dành ngày sau, thật đáng tiếc thương thay.
Trời Phật đối với cỏ cây rau trái còn cho là tội, không nỡ đoản mạng sanh linh, dấy lòng đen ác, nên các Ngài không bao giờ ngắt hái bẻ ngang. Các Ngài không màng thân sống, không tự làm ác để nuôi thân, bởi loài người và bậc Trời quá yêu cầu Ngài nán ở dạy đạo, tự họ sắm rau trái cúng dường, Phật vì nhân-duyên níu kéo không nỡ bỏ đi, không đành lòng ác lớn, mới tạm ăn để sống nán lại. Ăn rau trái mà Ngài còn sợ sự thơm ngon chẳng dám nói ra lời khen chê, và cố lãng quên mùi vị của nó, là vì sợ e chúng-sanh chìu ý Ngài mà đi làm ác hung ngang bạo, về sau nầy vậy. Đã là cái xác thân bố-thí cho chúng-sanh rồi, là con vật của chúng-sanh nuôi để nhờ cậy dùng xài, mà Ngài còn không vui vẻ với sự ăn bất công bình ấy thay, huống hồ chúng ta có công đức gì lớn với đời lắm hay sao mà nuốt chúng-sanh lớn miếng lại khen ngon, sao đành lắm vậy? Rau trái vật bỏ mà Phật còn cho là tội tâm ô-nhiễm, chẳng dám lấy làm, chúng ta hơn gì Ngài phước-tánh có bao nhiêu mà ăn tới thịt thú, thịt người, tập làm giặc như thế?
Còn các nhà sư đang lo tu học, nhắm mắt mà ăn, vay của chúng-sanh, vay ít nơi rau trái, loại chưa có đủ linh-hồn, thù oán mà trong tâm vẫn thấy tội, nên chẳng dám tự lấy làm, thế cũng còn mắc nợ, ngày sau phải đi giáo-hóa đền ơn, các Ngài chẳng dám tư-cao không tội, không dám ăn ngon đầy bụng thay, chúng ta lại giỏi tài gì ăn thịt…lại khen ngon, chê dở, chiên, nấu, xào, kho…để tập thói hung thần ác quỉ, thú dữ yêu-tinh chằng quái, mặt nổi gân to, mắt lồi tròng đỏ, tóc đứng, râu heo, chân như kềm sắt, tay tợ dấu đồng, nhăn nanh bậm miệng…!...Nào có nghỉ đến tánh mạng mình về sau cũng y như vậy!
Than ôi! Trong đời nào ai có lúc rảnh để nghỉ xét lại coi mình là người gì? Sánh với hung-dữ của loài thú mình hơn hay thua sút nó? Kìa con gà mẹ cắn hột thóc, túc kêu bầy con nhỏ lại nhả cho ăn, mẹ đói con no, gà ấy mới thật nhơn người xứng đáng! Gà mẹ giữ gà con, cá mẹ giữ cá con, thú lớn binh thú nhỏ, hùm dữ chẳng ăn thịt con…ấy mới thật nhơn người đã có, vì vậy mới trở nên người. Hôm nay chúng ta lên đến làm người, lẽ nào lại tập tánh không nhơn để đi trở lại, mà nỡ bỏ bà con trên mặt đất, của tiếng nói việc làm, để cho bao người trông đợi kiếm tìm, còn mình thì chìm sâu, sâu mãi chẳng quay về! Kẻ làm ác sao chẳng xét rằng: Mình còn có thấy ai, và đang ở chung với ai không? Có ai thấy biết mình và ở chung với mình không? Ấy vậy cái sống của mình đây là đang ở đâu, và là chủng loại gì? Thử ta đặt tên ta theo hành-vi coi ta là ai cho biết! Lẽ nào quên mất bổn-căn, trối mặc cho cái chết tới đâu hay đó!