Thứ Hai, 10 tháng 4, 2023

RTT 51. Thờ Phượng; Worship

      
Đề tài: giảng luận số 51 (năm mươi mốt)
 Subject: lecture number 51 (fifty-one) 
Thờ Phượng; Worship
Tác giả: MINH ĐĂNG QUANG 
Author: MINH DANG QUANG
&&
Theo phiên bản, xuất bản năm 1993; By version, published in 1993
Hiệu chỉnh và dịch sang Anh ngữ, học trò nầy: tự học tiếng Anh-LÊ ĐỨC HUYẾN; Editing and translating into English, this student: self-study English-LE DUC HUYEN; (Trang 763; Page 778)
Kệ-tụng: Viết bài Chánh niệm! 
Verses: Write Mindfulness articles!
Buông bỏ vọng-chấp rằng: quên!
Chẳng cần luận giải: hư, nên, là gì?
Let go of hope attachment that: forget!
No need to explain: what is bad, so, what?
       Nhị nguyên tiến hóa đường đi,
Từ vô đến hữu, vậy thì: tiến lên!
      The evolutionary duality of the path,
From nothingness to being, then: forward!
*&*
Gương đạo hạnh Thầy, bậc bề trên,
Ta kẻ dưới, phải nên: tôn thờ!
Virtuous examples of teachers, superiors,
I the underdog should be worshiped!
      Thân là Chánh-Giác mà nhờ,
Bồ đề Chánh niệm, thành thơ: viết bài.
      The body is Right Enlightenment that thanks to,
Mindfulness Bodhi, into poetry: writing articles.
Cư sĩ TÂM-ĐĂNG, ngày 27-3-2023; Layman TAM-DANG, March 27, 2023
Các Ngài cho rằng: chỉ có một pháp tu, để đắc quả thánh trong sạch: A La Hán thôi, pháp ấy là: dứt lòng kiêu mạn.; They think that: there is only one method of cultivation to attain the pure and holy fruit: Arahant only, that is: stop being arrogant.; Mà cái pháp ấy có ra, là do sự biết quý trọng một cái pháp để tự lập đi lập lại mãi, không cho nhàm chán là sẽ được sự trong sạch hoàn toàn, giải thoát hoàn toàn.;  But that dharma comes about, it's because of knowing how to cherish a dharma to 'self-repeated' over and over again, not letting it get boring,  that's going to be 'completely pure' and completely liberated.; Câu ấy thật rất đúng!; That sentence is very true! [765-766] ☑✒✖; c. Câu đơn là gì?; What is a single sentence?; See more at => Link: Mệnh đề độc lập ; Independent clause; From: [RTTa.]
Khi xưa tại xứ Ấn Độ, thuở Phật sanh tiền, Phật và Tăng sư là bậc giải thoát: chân tu, nên không có thờ phượng.;
In the past in India, when the Buddha was born, the Buddha and the Sangha were liberated: true cultivation, so there was no worship.; Các Ngài không có bày ra sự thờ phượng bên ngoài, cùng các nghi lễ: cúng kiến phức tạp.; They did not display external worship or rituals: elaborate offerings.; Các Ngài, chỉ quý trọng: tư tưởng giáo lý!; Gentlemen, just appreciate: doctrinal ideas!; Còn đối với các hạng cư gia: hữu lậu tội lỗi, thì còn hâm mộ đức tin, việc thiện, chút ít nơi hình thức.; As for the class of householders: being smuggled in sin, they still admire faith, good deeds, a little in formality.; Như là tạo xây cốt tượng, cất lập chùa, tháp, lễ bái , cúng dường, đi viếng các nơi kỷ niệm quan trọng: của Phật v.v...; Such as creating statues, building pagodas, towers, worshiping, making offerings, visiting important memorial places: of Buddha, etc.; Li cũng như, vua A Dc xây lp ra vô s nhng tháp, đ th ct tượng Pht.; Also, King Asoka built countless 'stupas' to 'worship' the Buddha image.; Hoc th phượng các món vt dng du tích, th xá li tro tàn, cùng th phượng Pháp bo sách kinh ca Pht.; Or worshiping vestiges, relics, ashes, and worshiping the Buddha's treasures and scriptures.; Ti các: ngã ba, ngã tư đường đi, trên cao chót vót, mà bi bm, li thô, vic ác trược ca thế gian, không h bám ti.; At these: junctions, crossroads, paths, towering, dust, rough words, and evil deeds of the world, do not cling to.; Vì đi vi đo Pht, là Pháp bo chung, ca tt c chúng sanh, nên nhng k đã biết đo ri, là không bao gi ai dám gi lòng tư riêng ích k trái ngược.; Because for Buddhism, which is the common Dharma treasure, of all living beings, those who already know the Way, never dare to keep their own "selfishness" in contrast.; Người ta cũng không dám th ct tượng Pht ti nhà!; People also don't dare to worship Buddha statue at home!;  Mà cho rng: đó là mt s sai trái pháp lut ca đo, ca li Pht dy, ca s giác ng tiến hóa cho cư sĩ.; That said: it is a contrary to the law of the religion, of the Buddha's teachings, of the enlightenment evolution for laypeople.; Người cư sĩ, thu xưa, th phượng chư Pht Thánh là bng đc tin, tư tưởng và bng giáo lý trí hu.; Lay people, in the past, worshiped the holy Buddhas by faith, thought, and wisdom teachings.Vì hai l: th phượng quý báu ích ly, mà cư gia kính trng lm!; Because of two reasons: worshiping is valuable and beneficial, but the family respects it very much!; Chng bao gi dám đ ti trong nhà, là ch đi qua li, dễ duôi, cùng s ăn ng khít bên, hay nói, làm:  thế s, vô l.; Never dared to leave it in the house, where it was easy to go back and forth, to eat and sleep, to be close, or to say and do: world affairs, disrespect.
          Như người ta nhận thấy ra rằng: Phật và Tăng là bậc giải thoát xuất gia thanh tịnh, không thể nào ở trong nhà thế một ngày hay đêm.; As people realize that: Buddha and Sangha are liberated and pure monastics, unable to stay at home for a day or night.; Bởi tâm của các Ngài đã quen sự yên lặng trầm mặc.; Because their minds are used to silence.; Các Ngài chẳng còn thấy nghe việc đời, tâm ấy như đã khắc kỵ tương đối với cõi đời.; They no longer see and hear worldly affairs, their minds seem to be incompatible with the world.; Các Ngài đã xuất gia rồi, thì đâu còn nhập gia luân hồi trở lại.; They have already ordained, then they will not join samsara again.; Vả lại, cũng không ai cư sĩ mà dám ép buộc cầm mời các Ngài, để đặng phá hại đạo Phật.; Besides, no one lay people dare to force them to invite them, in order to damage Buddhism.; Đành rằng, khi xưa, cũng có lắm kẻ cư gia, vì sự mến mộ Tăng hoặc Ni thái quá.; Granted, in the past, there were also many lay people, because of their excessive admiration for monks or nuns.; Lắm kẻ muốn rước thỉnh Tăng hay Ni vào ở luôn trong nhà của mình.; Many people want to invite monks or nuns to stay in their homes.; Kẻ ấy tính ngăn ra một căn nhà để làm phòng cho các Tăng hoặc Ni ở đó với cư gia.; He planned to separate a house to make room for the monks or nuns there with the household.; Khác nào là sự cầm tù nhốt trói các Ngài lại, để đặng làm tội phạt khổ các Ngài không cho tu và học.;It's like being imprisoned, tying them up, to punish them for their sins and not allow them to practice and study.Những kẻ ấy cũng là vọng tâm lành thái quá, mà không hay sự tội lỗi về sau.; Those people are also deceiving the mind too good, without knowing the guilt later.;  Muốn được riêng ích kỷ cho phần mình, hoặc mình sẽ được phước cúng dường riêng.; Want to be selfish for our own part, or we will be blessed with private offerings.; Không cho muốn cho Tăng hoặc Ni đi khất thực!; Do not allow monks or nuns to beg for food!; Chia phước chung cho tất cả hay cũng là một mình muốn cho Tăng Ni ở chung gần khít một bên.; Share the blessings in common with all or also alone want for monks and nuns to stay close to one side.;  Để nhắc nhở tâm mình mỗi ngày, cùng dạy học tu cho một mình mình.; To remind your mind every day, teach and practice cultivation for yourself.
           Những lúc ấy, chư sư thường dạy bảo cho rằng: Vẫn hay tấm lòng mộ đạo mến tu được đến thế, là rất ít có, tốt đẹp quí báu lắm nhưng mà cái chi thái quá là sẽ có sự bất cập rất gần.; At that time, the monks often taught that: It's still good to have such a pious heart, it's rare, it's beautiful and precious, but if it's too much, there will be problems very close.; Hễ ăn no...!;  Là cái chi cũng nhàm chán chẳng còn biết ngon.; When you eat full...!; It's also boring and doesn't know how delicious it is.; Các Ngài bảo rằng: Phật Tăng vốn không khi nào ở trong chỗ thế gian.; They said that the Buddha Sangha was never in the world. Kìa, chư Phật và Tăng sống chết trọn đời đều ở nơi vườn rừng thanh vắng.; Behold, all the Buddhas and the Sangha live and die for all their lives in a secluded forest garden.; Các Ngài không còn quyến luyến thiên vị riêng ai.; They are no longer attached to personal favoritism.; Các Ngài bảo giữ trí huệ, thần thông, đức hạnh, là phải ở nơi chỗ vắng êm cảnh tịnh.; They say to keep wisdom, supernormal powers, and virtues, is to stay in a quiet place.; Thế nên giới luật của các Ngài là phải tách phân với cư sĩ thế-tục.; So their precepts are to separate from the lay-laymen.; Các Ngài càng tu lâu,  là giới luật càng tăng thêm nhiều, thì sự giải thoát thanh tịnh là càng nhiều.; The longer they cultivate, the more the precepts increase, the more pure liberation is.
           Lại còn đối với sự tinh tấn, là các Ngài chẳng bao giờ dám ngó ngay mặt Phật.; As for diligence, they never dared to look directly at the Buddha.; Chẳng dám ngồi ngang, ngồi gần, hoặc đi trước mặt thoáng bóng, cho đến chỗ ở ngủ của các Ngài.; Do not dare to sit across, sit close to, or walk in front of the shade, until the place where they sleep.; Thảy cách xa nơi Phật ngự, nhứt là nơi thờ phượng!; Stay far away from where Buddha resides, especially places of worship!; Những lúc sau Phật tịch, các Ngài thờ phượng xây lập đền tháp nền cao.; After the Buddha passed away, they worshiped and built a temple with a high foundation.; Chỗ thanh tịnh, ngoài cuộc nhóm họp làm lễ, sám hối, khi có việc, hoặc quét dọn, chẳng bao giờ ai dám léo hánh tới gần.; In a quiet place, apart from the meeting for ceremony, repentance, when there is work, or cleaning, no one dares to approach.; Chỗ ăn ngủ phải cách xa nền đất, riêng hẳn mái hiên.; The place to eat and sleep must be far from the ground, separate from the eaves.; Tiếng nói chẳng cho nghe lọt bay vào nơi ngôi cốt Phật, giữ y như lúc Phật thuở sanh tiền.; The voice that could not be heard flew into the Buddha's core, keeping the same as when the Buddha was born.; Các Ngài kỉnh Phật như thế, tất là để kỉnh tâm, tâm sẽ biết quý trọng pháp, mà dễ bề tinh tấn, tu theo chân Phật.; They revere the Buddha like that, of course, to revere the mind, the mind will know to appreciate the Dharma, but easily make efforts to follow the Buddha's footsteps.; Vì ở trong đời, hễ cái cái chi ta còn quý trọng, là sẽ còn ham mộ, cố gắng thật hành, bằng hết quý trọng, là cái chi ta cũng sẽ giải-đãi chán nản và bỏ bê.; Because in life, whatever we still cherish, we will still admire, try to practice, with all our utmost respect, is what we will also deal with boredom and neglect.; Vậy nên bỏ cái chi thì các Ngài còn bỏ được, chớ đối với vấn đề sanh tử khổ báo luân hồi, thì các Ngài làm sao dám khinh thường.' So, what they give up, they can still give up, don't deal with the problem of birth and death, the suffering of samsara, how dare they despise it.; Mà chẳng phải là càng tu lâu, càng thấu đạo, càng đi xa, càng an lạc kết quả là càng phải cung kỉnh tăng thêm.; But it's not that the longer you practice, the more you understand the Way, the farther you go, the more peaceful you become, the more reverence you have to pay.; Phải biết sợ Phật, càng nên sợ Pháp, tức là phải sợ tâm.; One must fear the Buddha, the more one should fear the Dharma, that is, one must fear the mind.; Nếu tâm càng tự cao, giải đãi dễ duôi, là tức thì sa địa ngục trọn vẹn.; If the mind is more conceited and easy to deal with, it will immediately fall into hell completely.; Vì địa vị càng cao, là tánh mạng càng nguy hiểm, cũng như người trèo núi càng lên cao là đáy hố sẽ càng xa sâu thêm mãi...; Because the higher the position, the more dangerous the life, just like the higher the mountain climber, the deeper the bottom of the pit will be...; Vậy nên các Ngài, phải cần quan tâm thận trọng, phải có biết sợ dè dặt, mới chắc đi đứng vững yên.; Therefore, they need to be careful and cautious, have fear and reserve, to be sure to stand still.; Mặc dầu Phật không bảo sợ, mà kẻ giác ngộ là phải càng thêm tự sợ lấy mình, ấy mới phải thật gọi kẻ chân tu.; Although the Buddha did not say to be afraid, but the enlightened person must be more and more afraid of himself, then he must be called a true practitioner.; Vì mình càng cung kỉnh biết sợ, là sẽ giúp ích cho mình mau nên, chớ có ai được hưởng nhờ?; Because the more respectful we are, the more we fear that it will help us quickly, so no one can benefit from it? 
        Các Ngài cho rng: ch có mt pháp tu, đ đc qu thánh trong sch: A La Hán thôi, pháp y là: dt lòng kiêu mn.They think that: there is only one method of cultivation to attain the pure and holy fruit: Arahant only, that is: stop being arrogant.; Mà cái pháp y có ra, là do s biết quý trng mt cái pháp đ t lp đi lp li mãi, không cho nhàm chán là s được s trong sch hoàn toàn, gii thoát hoàn toàn.But that dharma comes about, it's because of knowing how to cherish a dharma to 'self-repeated' over and over again, not letting it get boring,  that's going to be 'completely pure' and completely liberated.; Câu y tht rt đúng!That sentence is very true! [765-766] ☑✒✖
       S dĩ các Ngài quý trng qu vô sanh: A La Hán, bậc cao thượng: "Ứng cúng" y!;  là vì nếu chưa đc qu thánh, thì có trông mong gì được qu Pht:  đâu đâu?; The reason why they appreciate the fruit of no birth: Arahant, noble: "Make offerings" there!; Because if you haven't attained the saint' result, then what do you expect to get the Buddha: where?; Ai đem cho?; Who gave it?; Pht kia há chng phi là mt v Đi A La Hán đó ư?; Isn't that Buddha a  Great Arahant ?; Bi thế cho nên khi xưa các bc A La Hán là không hay dám gn Pht, và bi không dám d duôi vi Pht, nên không nhàm chán Pháp.; Therefore, in the past, the Arhats did not often dare to approach the Buddha, and because they did not dare to be easy with the Buddha, they did not tire of the Dharma.; Mc du ít nghe ít hc, mà mùi v đo lý giúp cho các Ngài được no vui sng mãi đi đi, khác xa hn vi ông A Nan theo chi gn Pht, thông minh, đ phi bn dơ cho đo Pht.; Although they rarely hear or study, the taste of morality helps them to be satisfied and live forever, different from Ananda who is close to the Buddha, intelligent, and "dirty" for Buddhism.; Đúng lý như vy, k chưa tu thì còn dám làm vi trùng sâu r trong mình Pht., Rightly so, those who have not yet practiced, still dare to make germs and worms in Buddha's body.; Ch người có tu lâu là s càng xa Pht ln ln, nên đến mt ngày kia,  nơi nhng thế gii xa, có ra đi nhng đc Pht khác được.; Don't people who have cultivated for a long time will get further and further away from the Buddha, so one day, in the distant worlds, there may be other Buddhas born.
          Khi xưa cũng vì s kính trng s st quý báu nên hay ích ly, nên các Ngài thường dy bo cho các hng cư gia, khuyên chng nên thân cn ti lui vi Pht, vi các Ngài lm.; In the past, it was also because of that precious 'respect and fear' that they were useful, so they often taught householders, advising them not to be close to the Buddha, to them very much.; Nếu thái quá thì có ngày bt cp.; If it is too much, there will be a day of inadequacy.Sao cho bng s thường bn là tt hay hơn.; So that the ordinary durability is better or better.; Đo là mc trung, li ích: cho c ta và người, thì mi phi!; The Tao is the middle, the benefit: for both  self and others, that's right!; Kìa như năm by ngày ta đến chùa ly Pht sám hi mt ln, thì s cung knh s st ca ta càng biết tăng thêm quý trng, li đo lý và qu linh ca ta, càng thêm tinh tn bi phn.; Behold, when I go to the temple to bow to the Buddha once in seven days, my 'reverence' will increase in respect, my morals and my spirit, and my diligence will be multiplied.; Lâu lâu ta gp được mt v sư, ta s thy tâm mình sanh thêm mến mộ.; Once in a while, when we meet a monk, we will find that our heart grows more adoring.; Biết quý trng s xut gia, và còn hăng hái gim dt nghip trn duyên, toan lo gii thoát.; Know how to appreciate the renunciation, and also enthusiastically reduce the karma of the world, trying to be freed.
        Thế mà trái ngược, khi ta có thnh được Pht đến nhà ta mi ngày, thì mi ngày s quen ln ca ta càng ny nở.; But on the contrary, when we can invite Buddha to our house every day, every day our great habit grows more and more.; Chúng ta s không còn biết lo s đi đa ngc, tc là ta đã càng: d duôi, bt knh, khinh thường.; We will "no longer fear" hell, which means we have become: easy-going, irreverent, contemptuous.; Cũng như người cư sĩ kia, nh th ct tượng ti nhà, người cho rng: th Pht như thế là ích li cho tâm người.; Just like the other layman, thanks to worshiping the skeleton at home, he thinks that worshiping the Buddha like this is beneficial for the human mind.; Người ấy s xem thy trước mt luôn luôn, mà gim bt được rt nhiu nghip ti ca thân, ming, ý.; He will see it in front of his eyes always, and greatly reduce the karma of body, mouth, and mind.; Đó là theo ý riêng ca người, nhưng người quên dòm xem li nhng k chung quanh cư sĩ như người.; That is according to his own opinion, but he forgot to take a look at the people around him like him.; C thy, ai ai cũng sa đa d duôi, và chìm đm!; Everyone, everyone falls down easily, and sinks!; Người ta ch biết quý trng, cung knh s st, trong mt đôi ngày đu: lòng mun xut gia gii thoát kht sĩ.; People only know how to appreciate, respect and fear, in the first few days: the desire to leave home to liberate the mendicant.; S ác trược phát tâm tu, ch được có vài hôm, ri sau đó, thì th là th, cho có lệ.; Afraid to develop the mind to cultivate, only for a few days, then after that, worship is worship, let there be rules.; Còn s đời, thế gian li say đm bt k, không còn biết nghĩa lý đo đc, Niết Bàn hay đa ngc.; As for the "life, the world" is infatuated regardless, no longer knows the moral meaning, Nirvana or hell.; Người không còn biết đến, cũng không dám biết đến, cũng không cn biết đến!...; People who no longer know, do not dare to know, do not need to know!...; Chng y người xem ra Pht Thánh như là k ăn đ nh nơi nhà người.; At that time, people considered the Buddha Saint as "a person who ate beans and relied on" in his home.; Đo Pht có ra do nơi s th phượng ca người, người ly k công lao cc nhc nhc chng.; Buddhism came about because of people's worship, who took hard work to remind them.; Cúng vái mi bui đó, đ to gây phước nghip, ti li, ở bên ngoài.; Worship every day, to create good karma, sin, outside.; Cũng có k li ly nê Pht làm bia, cho d b gây sanh ác trược.; There are also people who use the Buddha's name as a stele, making it easy to cause evil defilements.
         Có người li tưởng chng như ct tượng y là v thn tài, th đa, giúp sự: nên, sự hay nơi gia đình người.; Some people think that the "bone image" is the "god of wealth, earth" and helper: "should, the good thing in his family.; y bi do nơi s d duôi nhàm chán mi ngày, mà gây sanh ác ti không hay biết.; It is because of the "easy" to be bored every day, which causes crimes to be born without knowing it.; Ai ai tâm trng chúng sanh là thy ging nhau: ăn cơm mãi mt món, thì đâu còn biết ngon?Who's mood is all the same: if you eat rice for a long time, you won't know how delicious it is?; Nói hoài mt li, làm c mt vic, thì đâu còn vui thích?; Saying the same thing over and over, trying to do one thing, is it still fun?; Sao bng: là ít nói, ít làm, ít ăn, hay lâu lâu mi s ăn, làm, nói mt ln, mi gi là quý hay tt đp.; Why is it equal: being less talkative, less doing, eating less, or once in a while will eat, do, say once, called precious or good.
       Đã vy nào thôi, s mun rước thnh Pht vào mãi nơi nhà, hay cùng s th phượng ct tượng Pht trong nhà, ngoài s v k sái lut tai hi cho mình y, còn thêm phi mc ti tâm vi chúng sanh, vi đo Pht. Vì s cm chân Pht, nht pht tượng ct Pht, là có ti vi chúng sanh chung. Đem Pht Thánh vào chôn sâu trong gia nơi uế trược quy ác phin não xu xa, là tn hi cho tinh thn và giáo lý đo Pht. Ngoi giáo s chê cười rng: Pht Thánh  nơi cu trược. Tr nh v sau s tưởng làm Pht Thánh cũng  trong nhà người thế. Li nhng k Tăng Ni v sau ly nê đó, mà làm vic thế gian ti li, cùng vi cư gia chung ln đng b đo lo đi. Và lm k cư gia cũng lm dng danh t Tăng chúng, cho mình cũng như xut gia, như hu cn Pht, như là con trưởng nam ca Pht, nên không cn k gì lut pháp gii hnh, không cn gii thoát làm Tăng kht sĩ, li khinh chê luôn c Tăng sư. Ni cô, Pháp bo, t xưng mình làm Pht ti nhà, xem thường chư Pht, chng k đo Pht, đ t buông lung ác ti, té sa vào đa ngc thm thương. Bây gi, người đã tr nên k hy báng Tam Bo, cho rng: nhà cũng như chùa, cũng có Pht như chùa, cũng có kinh Pháp, người như Tăng ri không cn nhp chúng vi ai, tu riêng mt mình, theo ý riêng, mt lp mt bài cũng đ, đo Pht như là đo ca mt mình người đúng phi. K y bng có thin lành, thì ch được là chư Thiên thôi, nhưng vi tánh t cao, là gc ác ti, thì thin lành đâu vng chc ? K y không bao gi được gp các bc chân sư đi đc hay chư Pht, vì người không thích hp ai, bi s kiêu căng tt đ. K y chng h nghe Pháp lý đ hc thêm, không hay gp được bc đc hnh, vì chng biết đến s thy nghe hoc gn gii lut. K đó s chết kh gia trong sình ly ô trược phin não, lp chôn đa ngc, mà đành vui chu, cho rng: đã là Pht Thánh thì không cn gì gii thoát ra ngoài đi đâu. Khi kh vì ch đng, người chng biết đi đến tìm nơi cnh tch, đ đng kha khuây giác ng tr li v.v...
        Đó tc là s đa lc mt tn hoá, bi ti li d duôi ca người cư sĩ chư Thiên thin cn được trước mt sau, biết bao nhiêu nhng k đã lâm vào cnh y.
       Vi ct tượng Pht mà còn như thế, hung chi là chư sư kht sĩ Tăng ni, k đang còn mang thân sng tm b, nếu được s  chung ch gn gũi ra vào thy gp, li còn phi chu s cung cp, làm k như ăn xin, thì cư gia tránh sao không nng n công cán khinh thường, s t bc thy xem ln như khách, kế đến như bn, sau rt chng khác cháu em, thì còn chi đo pht, và s tn hóa gii thoát giác ng cho mình.; 
         Còn Tăng Ni nào mà đi chịu ở chung như thế, kẻ ấy, đâu còn phải Tăng Ni có giới luật, thì cư sĩ kia nuôi dưỡng hạng mưu cầu y thực há chẳng tưởng lầm, gây sanh ác tội hay sao ? Mà cũng tệ thật, đời sau nầy, cũng có ít nhà chùa và Tăng sư Ni cô, cũng không còn giống như khi xưa. Có lắm nơi Tăng Ni ở chung nhà thờ Phật, chùa chẳng được chỗ vắng thêm thanh tịnh an nhàn của tinh thần đạo lý, Tăng Ni không còn thì giờ tu học giảng dạy pháp lý. Giới luật cũng chẳng chịu theo xưa. Tín đồ bổn đạo lại càng thâu nhiều phụ nữ, giai cấp lợi danh, chia rẽ đúng bực, không còn phải là chỗ tinh thần gom hiệp, tập sống chung bình đẳng để dứt nạn chiến tranh của đạo Phật. Bởi thế nên có kẻ cư sĩ kia, thấy mình tới đó không có ích lợi chi, mà cho rằng: chùa cũng Phật ở nhà cũng Phật, đi tới đó lại thêm xót mắt đau lòng vì Phật. Thế là các Tăng Ni vật chất lợi danh ấy, đã tự đốt chùa giáo hội đạo tràng tịnh xá của Phật, và luộc thiêu cả hột giống Phật tử cư gia kia. Như vậy thì ai cũng tội lỗi cả, hai phía càng tranh nhau, tức là càng giết đạo Phật thảm thay!
          Hồi nghĩ lại đạo Phật khi xưa ở nơi xứ Ấn Độ, người ta biết xây tháp lập đền, chỗ tinh khiết thanh tịnh mà thờ. Và Tăng sư có giới hạnh, có thuyết pháp: cư gia có chỗ tới lui tu học, được giải thoát phiền não, khuây khoả tâm thần. Cư gia đến để tắm rửa thân tâm trong sạch, mát mẻ nhẹ nhàng và tập sự sống chung hoà thuận, thật là hay quí tốt đẹp. Kế đến xứ Tàu theo đức Lão Tử, người ta cất lập lư bồng nhả mát rất cao, ở nơi chỗ vắng cảnh êm, là cảnh mát tâm rộng trí, để tu học cho mau tấn tới quả linh và đạo lý cũng còn khá. Trái lại đời nay xứ này lắm nơi thờ phượng không phải để nâng cao tinh thần giáo lý thanh tịnh của Niết Bàn vắng lặng, mà là sự thờ phượng tự ý cho là tượng trưng, trò chơi kỷ niệm, không kỉnh trọng, xem thường địa ngục, khinh dễ Niết Bàn, tưởng mình như Phật, để chôn sâu đạo và Phật trong giữa đất bùn, nhiễm ô vật chất lợi danh. Vì thế nên ai ai cũng khổ nạn, về sự sống chung tu học của trong đạo và tiếng Phật, tức là nạn khổ của sự tục và Tăng tranh nhau cái tiếng đạo Phật. Ấy cũng vì sự mắc bận việc nên các người đã quên không hay xét đến nguồn gốc tội lỗi của việc làm. Kìa cốt tượng Phật còn đang bị hành phạt nơi giữa nhà, xóm, chợ búa kia thì Tăng đồ tín đồ có đâu yên ổn đặng.
        Thật vậy đời nay ai cũng muốn đặng gần Phật, ai cũng muốn học để dạy người, dùng tiếng Phật để thâu người, mà ít ai biết sợ đọa chướng dễ duôi đặng tự lo tu, để cho thiên hạ xem gương noi dấu. Người ta mảng ngó chừng cho kẻ khác mà quên mình. Kẻ khác tấn hoá còn mình phải bị thối lui, nếu như một ngày kia mình sa địa ngục rồi, thì hỏi vậy còn độ dắt ai. Không lẽ lại cũng dắt họ đi luôn, lộn tròn xuống địa ngục ?
          Thế mới biết rằng: Tiếng Phật cũng có lợi và cũng có hại. Lợi cho kẻ chân tu hiền trí, mà hại cho kẻ sái quấy vọng ma. Đành rằng, trong kinh Pháp Hoa, Phật có dạy: kẻ mà nghe đến một tiếng Phật cũng là có hột giống Phật trong tâm, mai sau cũng sẽ thành Phật đặng. Kìa như Đề Bà Đạt Đa, kẻ hại Phật, bị sa địa ngục, chớ lâu sau cũng sẽ thành Phật, là do nhờ có sẵn hột giống. Kẻ ấy sẽ thành Phật chậm sau người ta ai nấy, vì còn mắc phải ở dưới trong địa ngục rất lâu, chịu quả báo khổ sở, mới sẽ được tỉnh ngộ, phát tâm vượt lên lần trở lại. Những kẻ ấy gần Phật để mà xa Phật, không có được sự giác ngộ chi, rất vô lý.
          Kìa trước mắt ta kẻ đồng bóng quỉ thần nọ cũng dựa nương tiếng Phật mà làm việc ác gian, lắm kẻ lại xưng gọi cứu độ đời, Phật nhập cho người, tưởng chừng như tiếng Phật là trò chơi, đạo Phật như hình vẽ chính người thân kề bên Phật, như kẻ dựa bệ, để đặng danh vọng lợi lộc, hưởng vui một lúc, đành chịu khổ muôn đời, thật là tai hại mê muội. Kẻ ấy phá đạo, giết Phật, hại chúng sanh, làm ra ma quái, tội lỗi lớn biết dường nào, thì làm sao tiến hoá kịp theo với người ta.
        Vả lại Phật bảo người tu y theo con đường của Phật, chớ Phật nào có bảo ai thờ phượng Ngài, độc tôn ích kỷ cho Ngài. Ngài muốn cho tất cả chúng sanh đều bình đẳng giác ngộ như Ngài cả cơ mà ! Thế sao chúng ta lại đi thờ cúng lễ bài làm chi, như kìa để cho trẻ nhỏ hiểu lầm sanh ác tội. Sự thật đã có, phải chăng như thế ? Vậy thì chúng ta nên hiểu rằng, thờ phượng là một phương pháp tạm trong lúc đầu cho kẻ ác quấy tội lỗi yếu tâm non dạ, sự thờ phượng tạm ấy là để an ủi khuyến khích kềm giữ đức tin, nhắc nhở cho kẻ mới sơ cơ, như nhỏ dại một lúc đầu thôi, rồi về sau là phải tự giác ngộ, tự lo tu, để mà làm Phật, y như Phật, chớ phải đâu vĩnh kiếp làm tôi đòi cho cốt tượng, cùng sự lập công kể ơn với tượng cốt, đặng mưu sự toại danh hưởng lợi, cho thêm khổ nạn, Thế mới biết rằng: sự thờ phượng không phải thật, thờ phượng là pháp trợ tu cho kẻ nhỏ, chớ đó chẳng phải là cách tu đâu, thì chúng ta đi nhọc lòng bào chữa làm chi ?
          Kìa như khi xưa chư Bồ Tát, sở dĩ các Ngài lập ra đền tháp, chỗ thờ Phật và pháp, ấy cũng bởi tại nơi người thế gian ngoại đạo hằng bày ra lắm việc ố ngạo, lợi dụng, đem kinh pháp cốt tượng bán buôn, sa thải, hủy hoại, phá đạo, nên các Ngài mới cực lòng lập ra đền tháp có chỗ nơi để gom thâu kinh pháp cốt tượng lại, hoặc đốt thiêu hay phượng thờ chung. Đó là cách cứu vãn mua chuộc đạo Phật, và cầu siêu giảm đọa cho kẻ thế ngạo mạn. Chớ chẳng phải nơi đó là chỗ chứa, để đặng phát ra cho thiên hạ xác thân bình yên mạnh giỏi, các Phật Tăng chân chánh là sẽ thuyết pháp dạy đạo, lo tu làm gương chớ nào ỷ lại vào sự làm giả tạm ấy. Vì các sự bán rẻ đạo pháp xa xí hủy hoại ấy cầu danh mưu lợi tuy có được sự ích lợi mau lẹ rộng nhiều thật, nhưng mà chỉ giúp cho chúng sanh được ham vui trong chốc lát, rồi thì về sau phải đọa khổ muôn đời. Vậy nên các bậc trí huệ, thì chẳng bao giờ nỡ lòng nào đi làm việc quá thiển cận tai hại như thế. Do đó mà các Ngài chỉ ra rằng: đạo Phật, chỗ đến của chúng sanh là tinh thần trong sạch vắng lặng cao quí: những ai bày ra lắm sự hữu vi sắc tướng phá Phật, giết đạo, mê hoặc chúng sanh mãi, tội lỗi khổ báo ấy chẳng vừa đâu ? Kẻ ấy dầu có được nhờ phước hữu lậu đó để sanh lên cõi trời kia đi nữa, thì họ cũng phải chịu khổ báo mãi, bởi những cố chấp nặng nề đọa lạc, khó trông gì giác ngộ vượt nghiệp bước qua đến được Niết Bàn vô lậu an vui thiệt thọ của Phật.
          Thật vậy, nhờ Tam Bảo mà nhơn loại bước tới chư Thiên, nhờ Tam Bảo mà chư Thiên đứng vững; nhưng chư Thiên khó đem mình giải thoát làm Tăng, để dứt khổ cõi Trời. Ấy cũng bởi một là lãng quên Tam Bảo, và hai là ngạo mạn tưởng mình như Phật. Hai hạng ấy thái quá bất cập với Tam Bảo, là bởi quá thân cận ôm giữ phượng thờ cốt tượng, cùng sự không còn biết đến làm Tăng mà phải sụt lui trở lại.
         Thế nên sự thờ phượng tạm của chúng ta là nên phải đơn giản thanh tịnh một lúc đầu thôi, rồi thì lo tu giải thoát làm Tăng, chớ chẳng nên cố chấp lắm, nhứt là sự thờ phượng phải cung kỉnh trang nghiêm, chẳng nên giữ tại chốn lợi danh phiền rộn, để phải mất sự tấn hóa giải thoát về sau. Những kẻ thật chân tâm, tu cần giải thoát chẳng muốn mang khổ báo của cõi Trời, người, thì phải khá nên giác ngộ nhận ra điều ấy, mà rán thật hành cho đúng lý, chẳng ngó ngày nay, thì mai sau mới mong ích lợi.
         Sở dĩ quyển thờ phượng này có ra là do sự kêu gọi chấn hưng chánh pháp của ngưòi tu tất cả. Vì thời kỳ chánh pháp thì tông giáo phải thu hẹp lại, đạo mới cao ráo quý báu sáng thơm, mới có được người tu giải thoát đắc đạo, khác hơn là thời tượng pháp và mạt pháp, tông giáo lan tràn hữu vi bày bố, như nước lụt quến đủ thứ đồ trôi, sanh ma tác quái, làm việc trò chơi trẻ nhỏ đành bỏ lớp tuổi ông già. Ông già sắp chết, lại bỏ không lo chỉ dạy, còn trẻ nhỏ sống dai mê muội ham vui mà đi dỗ hoài sao đặng ? Bỏ ông già ấy tức là bỏ giáo lý giải thoát chân tu thành Phật. Vậy ai ai khá nên giác ngộ, vì ham ăn thì chết đói, ham đạo là hết tu, chẳng bằng sự biết ăn và biết đạo là đúng lý tốt hay hơn.
         Đạo Phật khi hẹp thì phải mở rộng, và khi rộng là phải thu hẹp, rộng hẹp phải tùy duyên mới gọi là phương tiện thiện xảo của trí huệ Phật, sẽ dắt dìu chúng sanh tiến lên từng nấc một mà không còn phải là để cho chúng sanh chết nằm một chỗ. Cũng như khi xưa, đối với kẻ thế gian, thì đức Phật xót thương xem như người khách quí, phải chìu chuộng, vì kẻ ấy còn ở trong địa ngục, như đứa bé con còn đang ở trong bụng mẹ, nên bà mẹ phải sợ giữ gìn! Khi làm cư sĩ, thì đức Phật đã khắc nghiêm năm giới, tám giới. Lúc xuất gia thì Phật lại gắt gao 10 giới Sa Di tập sự và 250 khuất sĩ Tỳ Kheo và đến đã giác ngộ rồi thì đức Phật lại còn gắt nghiêm hơn nữa, vì giới càng nhiều thì định huệ sẽ càng nhiều. Cũng như lúc chưa có đệ tử, thì Phật phải mở rộng cửa thâu vô, khi vô đầy phải đóng cửa lại, và lựa bớt cho ra, mỗi năm có mỗi kỳ thi, mỗi thời kỳ có một cuộc tuyển lọc, mỗi lúc mỗi có sư dễ dãi và khắc nghiêm, thì mới có dìu dắt được từng lớp thấp tới cao lần lượt, mà thành nên sự sắp từng lớp của một con đường dài, từ trước tới sau có đầu có đuôi vậy.
         Đó là nói về sự thờ phượng Phật Thánh, còn thờ phượng ông bà cha mẹ của bậc cư gia cũng y như thế, thảy đều là sự có thấp có cao, có trước có sau. Khi xưa Đức Khổng Tử bày sự thờ phượng ông bà cha mẹ cho kẻ thế gian tại nhà là vì muốn dạy gương hiếu đạo cho con cháu về sau. Với lẽ ông bà chết rồi, mà cha mẹ còn thờ phượng nhớ ơn như lúc sống, thì con cháu đối với cha mẹ đang sống sẽ có hiếu thảo, chẳng dám vong ân, ấy là sự tốt nên cho nó và có ích lợi cho cha mẹ. Việc làm của cha mẹ ấy kể như cho vay, và con cháu sẽ trả lại. Đó là sự thi ân cầu báo, cho vay mong đòi nợ, giáo lý gia đình hiện tại tham lam nhỏ hẹp, tùy theo trình độ của chúng sanh, chớ đúng ra thì còn tội lỗi kém xa chơn lý. Vì kẻ cha mẹ kia có trả ơn cho ông bà đủ đâu, mà lại chiụ vay thêm của con cháu ngược lại. Nói cho đúng thì nuôi con tức là đền ơn cha mẹ; bởi mình nào đã được trả ơn cha mẹ.
Còn con là phải nuôi cháu nữa, chớ bắt nó nuôi mình, dưới ngó lên là ngược. Lại nếu chỉ biết hiện tại cho mình, cho con cháu, còn ông bà sau khi chết, lại bỏ quên đi, mà báo hại các vong linh ấy, thì tội lỗi bất hiếu là bao ! Lại cũng tội nghiệp cho các vong linh mãi vì sự thờ phượng vái van ủng hộ của con cháu, hoặc mến tiếc của cải, luyến ái tình thương, mà phải khổ sầu, chẳng đi lai sanh đặng. Bởi lời con cháu cầu vái ủng hộ, bắt làm tôi mọi cho chúng nó nữa, nên cũng không thể tu hành, đi theo Phật Thánh. Lắm lúc phải sanh làm con cháu lại nơi con cháu, hoặc sanh làm tôi tớ, làm lợn, chó, làm rắn … để giữ đồ đạc theo như nhiều sự tích xưa trong truyện Phật, thật là tội nghiệp. Kẻ con cháu mẹ cha nỡ lòng nào hành phạt thêm cho người đã khổ đến chết rồi kia ? Mà tại sao là khi kẻ ấy trở về già, chẳng cho nghỉ dưỡng, đưa vào xuất gia để sống chung tu học ở trong đạo tràng Giáo hội, gọi là tha thứ cho kẻ già, cho kẻ già nghỉ yên, thôi đừng hành phạt. Hoặc là khi có kẻ đã chết đi, tại sao không được thiêu xác thây cùng đồ đạc dấu tích kỷ niệm của kẻ chết, để cho vong linh không còn tiếc nhớ, đặng dễ bề nhập thai kiếp khác. Hay là đem hình ảnh tên họ của kẻ chết đưa vào chùa thờ. (Tại trong vuông chùa, xa xa chỗ đền tháp Phật, người ta cất ra một cái nhà thờ lớn, để thờ ông bà cha mẹ chung, cùng Phật Thánh sách kinh cốt tượng, mua chuộc góp để lại thờ chung). Người ta đem lư hương, bài vị, hình ảnh của kẻ chết, vào ký thác gởi gắm ở trong vuông chùa, cũng như kẻ sống cầu siêu, đưa người chết đi xuất gia, cắt cái ly tục, để cho vong linh ấy theo về với Phật, Pháp, Tăng trong sạch hiền lương giác ngộ biết tu cho hết khổ.
Khi y nếu vong linh còn linh ng, mến tiếc k nim là t s theo v  chùa lo tu, và con cháu thì cu xin k chết đi tu ch đng theo gn con cháu, đ chu kh báo. Như thế đó chng phi là cách báo hiếu, giúp nên tt đp cho người chết ? Đó là nhng k đã biết đo Niết Bàn, biết s luân hi đa ngc, thì vi k chết, không ai còn n đành lòng trói buc hành pht, cho đến vi người sng kia, mà người ta còn không v k hp lượng đ mưu s ích li cho mình, nên h vui lòng đưa ông bà cha m con cháu cho đi tu gii thoát, đ cho được s gii thoát ích ly, vì con đường sanh t là quan trng. Nhưng du nhng ai chưa biết đo đi na thì s th phượng k chết nơi chùa, cho vào theo đo chung, cũng là được s nên hay cho người quá vãng và yên lòng cho người sng hin ti. Nhng ngườy cũng có th hoc th vong linh ti chùa và ti nhà cũng được. Th thêm ti nhà là đ nhc tâm dy cho con cháu, đ ích li cho riêng mình, k sng người chết, thy đu ích li c hai bên. Như thế cũng là còn khá hơn s chng thy đng xa, bt hiếu ti li vi k đã qua, mà toi hưởng phn vui sướng cho mình hin ti sao đành ? V chăng giáo lý ca Thích Đo Nho là t bi chúng sanh chung hip. Các Ngài dy cho chúng sanh, tp sng chung nhau t mt hai người đến gia đình, xã hi, thế gii, và c chúng sanh t đi, sng chết c thy ch nào có b sót riêng ai. S th phượng là đ dung hoà k chết vi người sng, là pháp tm trau tâm, gii trí, thân tp sng chung, ch đu phi tư riêng ta người, kiến h.
Vì tt c chúng sanh là ch có mt h Pht, tánh chân, vũ tr mà ra, cũng như ông bà ta là ông bà ca tt c, ch phi nào riêng thân t đi, chng pha trn nhau mà có được. Do l đó mà s th phượng mt người, đến th phượng mt kiến h, đ đến vi s th phượng chung c chúng sanh, nơi trong vuông chùa đo Pht ca chúng sanh chung là rt đúng lý.
Ai ai cũng nên phi đem s th phượng Pht Thánh, cùng cha m ông bà, k quá kh vào ch đo chung là phi, có như thế mi dt được lòng tư k, chia r, chiến tranh nhau. Cũng như nơi ch bàn th hi đng y, tt c k quá kh đu chung hip, thì nhng người hin ti và v lai mi s chung hip. Vì người người s thường ti lui thăm viếng, gp g nhau ti ch đo đc thin lành, thường được nghe pháp hc gii, xem gương các nhà sư, và cnh tnh cm hóa nhc nh chân tâm. Ngày l k nim người s cúng kiến, chay lt trong sch, không làm ti li. Mt người cúng, là cúng hết thy, cúng chung, ly chung, thp hương đèn chung. Cho đến k cô đc kia, cũng hay đem th chung, đ t mình đi xa làm ăn, hay tu hc gii thoát được. Bi đã có k gi s th phng cho giùm. Người tu xut gia cũng được đem k nim thân quyến đã chết vào th, cho có người coi sóc, như đã gi gm cho đi tu xong ri, là trong tâm mi đng yên n rnh rang, mà đi tu hành x khác.
Có như thế thì ai ai t cũng mến m ân đc Pht Pháp, mà thy mun xut gia nhp đo, hoc có cho người trong h đi gii thoát được.
S quí báu nht ca th phượng chung là bá tánh thường ti lui cu hi, gp nhau nơi ch đo đc, đ gom tinh thn hào hip hin lương: y mi phi là đo lý giác ng ca chúng sanh chung, không bao gi có gic giã tai hi, cõi đi mi mong hnh phúc vĩnh vin sng chung như mt.
Đúng như vy, trong mi Giáo hi Tăng già, đu có đn tháp Pht Thích Ca riêng cho Tăng chúng và phi có nhà th riêng cho bá tánh th Pht Thánh hi đng, cùng th vong linh tt c, xa cách ch ca Tăng sư thanh tnh. Nơi đó phi là ch tế đ, sng chung cho tt c chúng sanh, sng chết, đo đi, sp đt th t thì mi phi là nơi xng đáng ích li, không còn mc phi ti li vi chân lý vũ tr. Và nhà Pht như thế mi gi là vũ tr đi đng.
Vy thì chc chúng ta ai ai cũng biết quí trng đo đc, đo đc phi là nơi ký thác, cu đ li ích chung ch đâu phi đo đc tư riêng, có như thế mi mong tp ln cho tt c đu tu, tr nên thế gii Pht. S th phượng y mi phi b ích, mi gi tn hoá, hp lý xng đáng giáo lý tinh thn, th phượng tm;  đ t th phượng mà s đến được s tu gii thoát thành Pht qua khi phượng th. Và các công vic li ích ln lao t thin trong đi sau ny có ra là s do nh nơi tinh thn phượng th chung hip, ch y mi tht gi là quan trng, quan trng hơn c xã hi thế gii rt nhiu, v sau s khi phi có giáo lý gia đình xã hi thế gii cũng được; vì đã là nơi bến b trong sch trn lành gii thoát giác ng tế đ, sng bng vng lng yên vui nhàn lc.
Kìa như x Tàu, người ta đã có s qui tu t đường đ th phượng chung, giúp ích chung, nên không có ai kh nn l loi, và các vic li ích ln lao, cái chi cũng thành tu.
Còn người Khơ Me, đem tro ct ca cha m ông bà vào trong chùa xây tháp vuông th riêng có ch, chung nhau là gom hip tinh thn đo đc.
Thế mà ch có người Vit chưa dt hn được mm lon chia r giết nhau, nên đi vi s chết kh ca ai tri mc, trong x đo điên mãi, dân chúng phi tai nn hoài, tht là vô lý.
Kìa như ngườn Đ, người ta nói rng: k biết th phượng, cùng tin tưởng Pht Tri, là đ khá d chu lm, vì s bt tai nn đa ngc thm hình.
Vy thì chúng ta cũng nên hãy biết dùng phép th phượng tm làm phương pháp cu thế đ đi, chánh lý trong sch, trong lúc kh nguy, đó là mt s thích hp vi thi cơ, dùng tm hu vi, đ bước ti vô vi chân tht yên vui vĩnh vin. Vì vô vi là đúng lý quí báu hơn hết.
Ai ai cũng nên giác ng s tt đp ca th phượng đó, hết ! 
Everyone should be enlightened goodness of worship that before!
Tổ sư MINH ĐĂNG QUANGPatriarch MINH DANG QUANG

__________&*&__________