a) Y thượng bá nạp, phải bằng vải cũ hoặc vải vụn đâu lại.; The top robes must be loaded with old cloth or rags.; Không được may vải vụn đủ bông, đủ màu rằn rực sặc sỡ; phải may bằng vải trắng, vải vàng, hoặc những thứ lợt màu, để có thể sau khi may rồi, nhuộm cho tiệp màu vàng sậm.; It is not allowed to sew rags with enough cotton and colorful stripes; must be sewn with white cloth, yellow cloth, or light-colored things, so that after sewing, they can dye them dark yellow.; (Cấm dùng loại vải và chỉ may bằng tơ lụa, hàng nỉ, hàng nhiễu ren, hàng tố cẩm-tự là đồ vật của các loài vật có sanh mạng.; It is forbidden to use fabrics and sewing threads made of silk, felt goods, lace-trimmed goods, and handmade goods that are objects of animals with life.; Cấm dùng màu đen, trắng, xanh, tím, đỏ, vàng, màu tươi tốt.; Prohibit the use of black, white, blue, purple, red, yellow, and lush colors.) ☑
Y bá-nạp thượng, hay còn gọi là Áo cà sa trên, bề dài 2m70, bề ngang 1m80, mặc quấn.; The upper robe, also known as the upper robe, is 2m70 long, 1m80 wide, wearing a wrap.; Nếu là Áo cà sa trên của Sa di bằng vải nguyên, còn Áo cà sa: thượng (trên).; If it is the above robe of the novice made of raw cloth, and the kashāya: upper (upper).; Còn của Tỳ kheo là nhiều mảnh khâu vá lại (bá-nạp) thêu bìa dọc dài 0m10, bìa ngang 0m15 (là 3m x 2m).; And the of the bhikkhu is many pieces sewn together (semi-loaded) embroidered the vertical cover 0m10 long, the horizontal cover 0m15 (which is 3m x 2m).; (Khi ra đường, vào nhà xóm mặc y vấn tràng; When going out on the street, entering the neighbor's house, wearing a robe) ☑
b) Y hạ vải nguyên, bề dài 2m, bề ngang 1m, may dính lại, thành ra vuông vức 1m2. Bìa trên 0m10, bìa dưới 0m05, nhuộm màu vàng sậm theo y thượng (Tăng mặc xếp, Ni mặc dún rút; Tăng mặc nửa ống chơn, Ni mặc ngang mắt cá cổ chơn).
c) Y trung vải nguyên, bề dài 2m, bề ngang 0m70, không may bìa. Kết mỗi nên hông một nút quai thắt. Nhuộm màu vàng sậm theo y thượng và y hạ, mỗi khi giặt phải giặt một lượt 3 cái, không cho bay màu khác nhau (có thể y trung này màu sậm, hoặc lợt hơn y thượng và y hạ một chút ít cũng được). Nhuộm bằng thuốc màu, hoặc vỏ trái măng cụt sống, vải giặt sạch hồ, nhúng phơi 4 nước chớ đừng ngâm (khi mặc vào chừa cánh tay mặt).
Y trung của Ni lưu bề dài 1m, bề ngang (kích) 0m70, tay 0m85, ống tay 0m20, đinh, lai, bâu 0m20, nút quai thắt, phải có may xương sống và vai vuông.
Y thượng: phải mặc một cái một, mỗi năm đổi một lần vào ngày Rằm tháng Bảy. Hoặc ai muốn chỉ giữ một cái cũ, mặc vá trọn đời cũng được.
Y hạ: có thể cho một cái mới, mỗi năm đổi một lần vào ngày Rằm tháng Bảy, và giữ thêm được một cái cũ để thay đổi. Mỗi khi đi ra đường phải mặc cái cũ ở trong, cái mới ở ngoài đặng cho tiệp màu với y thượng. Trong lúc đêm hôm, mặc ngủ, cùng khi làm việc dính dơ, nên mặc dùng cái cũ. Hoặc như ai muốn mặc một cái thì càng tốt, chớ cấm tuyệt đối không cho có đến ba cái hạ y, hoặc hai cái mới hết.
Y trung: Mỗi năm đổi một cái mới vào ngày Rằm tháng Bảy, và còn giữ được một cái cũ. Cấm ba cái, hoặc hai cái mới hết. Phải mặc cái cũ phía trong, cái mới phí ngoài cho tiệp màu y thượng và y hạ. Hoặc chỉ mặc thường một cái cũ cho hư trước, cái mới ít mặc đặng lâu hư. Ai mặc được một cái càng tốt (Ni lưu có được hai bộ y hộ thân riêng và một cái túi nhỏ, bề dài 0m30, bề ngang 0m25).
Khăn lau: Bề dài 0m60, bề ngang 0m30, vải nguyên, màu vàng sậm. Khăn, túi và tam y phải một màu vàng sậm.
Choàng tắm: Bề dài 2m, bề ngang 0m85, nếu dùng choàng tắm thì không dùng y trung, y hạ cũ.
Với một cái muỗng nhôm, một bàn chải chà răng cán bằng bột hoặc bằng cây, bằng cao su (chớ không được bằng sừng, xương, ngà, đồi mồi) và một con dao cạo tóc, một ống đựng kim chỉ, vải vá, một bộ đồ lược nước uống, một cái lon uống nước bằng nhôm là đủ bộ phận của nhà sư (đồ này với giấy đạo thảy để hai bên trong túi bát).
Bậc Sa di hoặc Thinh Văn hay có sắm thêm một cái túi nhỏ để kinh sách và bài học. Nhằm khi đi du hành xa, nơi xứ muỗi nhiều, các sư ấy cũng đem theo mùng, nên túi riêng này: bề dài 0m40, bề ngang 0m10, bề cao 0m30, nắp phủ 0m20. Mùng túi này ai không có cũng được (Ni lưu có một túi nhỏ riêng để kinh sách).
Mùng của nhà sư: Bề dài 2m, bề ngang 0m70, bề cao 1m.
Mặt giường nằm của nhà sư: cũng y như nóc mùng, bề dài 2m, bề ngang 0m70, bề cao 0m40.
Ghế nhà sư ngồi: Cũng không cao quá 0m40, khi ngồi thòng chơn, gót vừa đụng đất.
Cốc nhà sư ở: Bề dài 3m, bề ngang 2m, cột 2m50 cất khiêng, lót sàn 0m30. Chỗ ở phải xa nhà bá tánh ít nhất là một trăm thước. Phải ở vườn rừng, không được ở núi, chợ xóm.
Nhà sư phải đầu trần, chân không, mặc y chừa cánh tay mặt. Trừ khi bệnh yếu, được dùng guốc cây, dép mo, che dù vải vàng, đội mũ vải, hoặc khăn vải vàng, mặc y thượng trùm kín, hoặc y trung che kín hay phủ ngược (không được ở trần). Mền, ngọa cụ, tọa cụ, gậy, đồ vật dùng trong khi dưỡng bịnh uống thuốc, khi mạnh rồi phải bỏ hết, giữ giới luật thanh bần đơn giản lại như cũ, như hồi chưa đau. Chẳng đặng mặc, mang đồ vật theo cách người bịnh mà vào tịnh xá lễ Phật, nghe pháp, hầu thầy, lại gần pháp tháp, nhóm họp, đọc giới, sám hối, đi đường.
Không mưa, không bịnh, thì chẳng đặng ăn ngủ trong cốc. Chớ ngủ hai đêm một gốc cây. Chớ ăn hai lần một chỗ ngồi.
Người bịnh nếu có hai hộ cho đồ ăn buổi sáng thì được ăn. Nếu bịnh nặng, không độ được buổi cơm trưa, thì được độ buổi cơm chiều, khi có ai dâng cho. Người bịnh tốt hơn là để tâm mình thanh tịnh, những kẻ khác phải lo nuôi sóc người ấy.
Vị sư điều dưỡng có thể khỏi đi xin và được ăn dùng buổi sáng khi có đồ ăn dư nhiều. Còn tất cả các sư đều phải ăn độ một bữa ngọ trưa. Đi xin, đồ chay, hoa trái, rau cỏ mà thôi.
Giáo hội Tăng thì đi du hành khắp xứ, nghỉ tạm nơi các vườn, rừng, tịnh xá, nhà mát, cốc lều làm che tạm. Không nhận tiền, bạc, vàng. Không nấu nướng, tích trữ vật thực.
Mỗi vị sư bịnh, khi thiệt mạnh rồi, không tích trữ để dành thuốc.
Trong xã hội cư gia có đủ hội phước thiện đệ hộ pháp cho chư Tăng và giúp đỡ bá tánh, kẻ cô độc về tứ sự: sự ăn, sự mặc, chỗ ở, khi bịnh, nếu là một xứ có đạo; và như vậy, trong mười người có một người xuất gia Khất sĩ, ba người tại gia cư sĩ, ba người thiện, ba người ác. Thành ra một trường học có ba lớp cho người ác bước lên. Mỗi lớp có đủ chi nhánh giáo phái, càng nhiều càng hay, chúng sanh tất cả đều có học, biết rõ mục đích chung là tiến đến sự sáng suốt, hiền lương và khỏi khổ. Muốn hết khổ phải dứt bỏ tham, sân, si thì ý mới định. Ý định là Niết bàn. Muốn vậy phải xuất gia Khất sĩ, giải thoát khỏi tứ sự: ăn, mặc, ở, bịnh. Sống như ông già không giống tuổi trẻ. Ta xin vật chất để nuôi thân, người xin tinh thần để nuôi tâm. Cõi đời mà chúng sanh biết xin lẫn nhau để sống cả thân tâm là xứ Cực lạc.
Hơn là để nhồi sọ lẫn nhau bằng các cái xin của bóc lột, cái xin dàn áp xảo trá, không phải tự người vui lòng cho, không phải thiện. Nếu không đi xin thì không bao giờ hết tham, sân, si tội lỗi
1.3. TỨ Y PHÁP
1- Nhà sư khất thực: Phải lượm những vải bỏ đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.
2- Nhà sư khất thực: Chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp, đọc giới bổn, được ăn tại chùa.
3- Nhà sư khất thực: Phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ, bằng lá một cửa thì được ở.
4- Nhà sư khất thực: Chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường thì được dùng.
Không tự lấy để trừ tham.
Không tự làm để tránh ác.
Uống hỏi xin nước, nằm hỏi xin đất. Ăn hỏi xin lá, trái; ở hỏi xin cốc, hang. Không ngắt lá cây, không bẻ trái, phải lượm xin. Ăn quả chừa hột, đừng bứng gốc (không xin thái quá), không dùng đồ vật để sanh mạng của thú, người. Dứt tham ác thì sân si vọng động chẳng phát sanh.
1.4. MƯỜI GIỚI TẬP SỰ SA DI
1- Cấm sát sanh
2- Cấm trộm cắp
3- Cấm dâm dục
4- Cấm nói dối khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi.
5- Cấm uống rượu, tham lam, sân giận, si mê.
6- Cấm trang điểm phấn son, dầu hoa, áo quần hàng lục tươi tốt.
7- Cấm nghe, xem hát, múa, đờn, kèn, yến tiệc vui đông.
8- Cấm ngồi ghế cao, nằm giường rộng chiếu lớn xinh đẹp.
9- Cấm ăn sái giờ từ quá ngọ đến ngọ mai (phải ăn chay).
10- Cấm rờ đến tiền, bạc vàng, của quý, đồ trang sức.
Sống theo lẽ một, ở một mình, ăn một bữa, mặc một bộ áo, ngày học một lần, làm một việc, nói một lời, đi một đường, một cái bát, ngồi nằm một chỗ một người (ngày lạy một lần…).
Ngoài Tứ y pháp và mười giới (hoặc 250 giới luật nghi), không còn có đạo Niết bàn nào thứ hai nữa cả.
1.5. CÕI NIẾT BÀN
Giới bổn luật nghi (Tỳ kheo 250 giới)
A. BẢY LỚP LAN CAN BÁU (Thất tụ giới)
1-Bốn đại giới (trục xuất) | 4 |
2-Mười ba giới tổn hại tăng tàn (giáng cấp) | 13 |
3-Hai giới không định | 2 |
4-Ba chục giới phá sự thanh bần (cấm phòng sáu bữa) | 30 |
5-Chín chục giới hành phạt (quỳ hương ) | 90 |
6-Bốn giới đặc biệt (xưng tội xả đọa) | 4 |
7-Một trăm giới nhỏ phải học (sám hối) | 100 |
Cộng: | 243 giới |
B. BẢY LỚP LƯỚI BÁU (Thất định pháp)
8- Bảy pháp diệt tránh (giới giải hòa) | 7 |
Cộng: | 250 giới |
C. BẢY HÀNG CÂY BÁU: Thất giác ý (Thất Bồ đề)
1- Phân biệt sự lành với sự dữ
2- Tinh tấn mà lướt lên
3- An lạc trong vòng đạo đức
4- Thắng phục tâm ý mình đặng làm lành
5- Nhớ tưởng đạo lý
6- Nhứt tâm đại định
7- Vui chịu với mọi cảnh ngộ
(Muốn biết rõ hơn, hãy xem giới bổn).
1.6. NIẾT BÀN THỜI KHẮC BIỂU
TRÚ DẠ LỤC THỜI
1- 5 giờ tới 6 giờ sáng: Thiền định
2- 8 giờ tới 9 giờ sáng: Khất thực
3- 11 giờ tới 12 giờ trưa: Thực thời
4- 3 giờ tới 4 giờ chiều: Thuyết pháp
5- 6 giờ tới 7 giờ chiều: Thiền định
6- 12 giờ đến 1 giờ khuya: Thiền định.
1. Giáo hội Tăng-già Khất sĩ; The Sangha Church of Mendicants
a) Một Tăng hay một tứ-chúng là 4 vị sư.; A Sangha or a four-group is four monks.
b) Một tiểu Giáo hội Tăng già là 20 vị sư.; A minor Sangha is 20 monks.
c) Một trung Giáo hội Tăng già là 100 vị sư.; A middle Sangha is 100 monks.
d) Một đại Giáo hội Tăng già là 500 vị sư.; A great Sangha is 500 monks.
Trong đó chỉ có một chức Khất sĩ mà thôi, chớ không có phân chia giai cấp chi cả. Những ai đắc quả A-la-hán, hay Bồ tát, có trí huệ, đạt quả linh, đức hạnh lớn, thì được người ta tôn trọng. Trong đạo không có tính tuổi lớn, nhỏ, nhiều, ít, theo đời. Tùy theo kẻ xuất gia sau trước, kể từ ngày quy y thọ giới, thì giáp năm tính là một tuổi. Bởi kẻ chết bên đời, sanh qua bên đạo, chết bỏ cõi ác, cõi thiện mà sanh vào trong đạo giải thoát, nên tính theo tuổi giải thoát thôi.
Người mới xuất gia nhập đạo, phải theo thầy, ở chung trong Giáo hội 2 năm, kế đi tách riêng một mình 2 năm nữa. Trên 4 năm được thâu một người tập sự. Trên 6 năm mới được thâu nhận một đệ tử và một người tập sự. Được trên 12 năm tách ra đi lập đạo riêng, dạy số đông.
Trên 6 năm gọi là Đại đức. Trên 12 năm gọi là Trưởng lão. Hai bậc này phải có đủ đức hạnh do Giáo hội chứng minh cho phép. Trong Giáo hội, ai lớn tuổi đạo được đứng, đi, ngồi trước; ai nhỏ tuổi đạo phải theo sau. Từ khi Giáo hội đã được đủ 20 vị rồi, thì những ai xuất gia sau này phải tập sự với một vị sư trong 2 năm. Ở trong giữa Giáo hội, kêu gọi là nhập thai trong bông sen (chính hoa sen là Giáo hội Tăng già, là ngôi vị của đức Bồ tát hay Phật, là Giáo chủ. Giáo hội Tăng già lớn gọi là tòa sen lớn). Sau 2 năm tập sự đủ nết, hạnh thanh tịnh và thiện căn phước đức nhơn duyên mới cho thọ quy giới, nhập chúng sau hàng Khất sĩ, bấy giờ mới được gọi là bình đẳng).
Trong đạo: Các sư chỉ làm thầy đỡ đầu, tiếp dẫn, truyền giới chứng minh tạm cho mỗi vị mới xuất gia, chớ chúng sanh là bình đẳng. Không có danh quyền chi cả.
Người tập sự phải từ 18 tuổi sắp lên và từ 20 tuổi mới được thọ giới Khất sĩ 250 giới. Chứng minh cho một người tập sự phải có đủ 4 vị sư trên 2 năm. Và khi cho thọ giới Khất sĩ phải có đủ một tiểu Giáo hội 20 vị sắp lên, chứng nhận minh bạch, thiếu một vị cũng không được. Khi đó, phải có một vị sư đứng ra giới thiệu, xin giùm với Giáo hội, một vị sư truyền thọ quy giới cho, và phải có một vị Đại đức hay Trưởng lão, Thượng tọa đứng ra bảo đảm dạy dỗ. Lúc ấy, tất cả Giáo hội đều phải ưng thuận hết; nếu có một vị sư bất bình thì sẽ không được thâu nhận.
(Ni lưu, cách thâu nhập đạo cũng y như Tăng, mà mỗi khi thâu nhận một người tập sự, phải trình diện với một Tăng (4 vị) liền trong lúc ấy. Cho thọ giới một nữ Khất sĩ, phải do Giáo hội Tăng xem xét mới được).
Trẻ nhỏ dưới 18 tuổi không được thâu nhận cho tập sự; vì đạo Phật là đạo giác ngộ, của bậc già đủ trí. Đúng phép của sắc thân, thì người 48 tuổi là tuổi tập sự; 50 tuổi là tuổi xuất gia, Thinh Văn; 54 tuổi là tuổi du hành, Duyên Giác; 60 tuổi là tuổi làm Bồ tát; 66 tuổi là tuổi đi giáo hóa cả chúng sanh; 72 tuổi là tuổi Như Lai Niết bàn nín nghỉ.
Người xuất gia nhập đạo cũng giống như gia đình, xã hội cõi thế. Chính Giáo hội Tăng già mới là một đại gia đình hạnh phúc, một đại xã hội hiền lương. Chính Giáo hội Tăng già là giáo lý muôn năm, cõi sống của những ông già kinh nghiệm không còn tư riêng nhỏ hẹp, sống với cả chúng sanh chung, từ bi trí huệ, thanh tịnh trang nghiêm, đức hạnh đầy đủ. Giới luật Tăng già là miếng đất Tịnh độ, xứ an lạc của mỗi vị Phật; nơi đó thâu, chứa, rước, độ chúng sanh, dạy tu cho mau đắc quả! Cõi ấy dầu bao nhiêu, nhiều ít, ai ai, cũng không có sự tranh cãi rầy rà, ai nấy tự lo tu học lấy mình, không hay dòm ngó, không có danh lợi chen đua, khi đã thấu lý đạo rồi, thì lại xót thương muôn loại, mà chẳng còn sở chấp riêng mình. Người người đều biết hạ mình tôn trọng lẫn nhau trong tâm bình đẳng, hẳn thật yên vui.
Từ khi mới theo tập sự với một vị sư, dưới sự đùm bọc che chở của vị sư đỡ đầu, cũng như nhập thai trong hoa sen có được pháp danh thọ ký. Đến khi được xuất gia thọ giới là mới sanh ra trong giữa tòa sen. Thầy đỡ đầu như mẹ, thầy tiếp dẫn là cha, kế đó Tăng chúng như quyến thuộc chủng loại. Nhờ đó được lớn lên Đại đức, có đệ tử như con, thành Trưởng lão là già, lập đạo giáo riêng là gia đình, xã hội khác, để dắt dẫn cả chúng sanh chung. Ấy mới là gia đình, xã hội, thế giới chơn thật vĩnh viễn tốt đẹp, riêng toàn là của những bậc đại hiền kia vậy.
Những ai vào trong giới luật của Giáo hội Tăng già rồi, thì chẳng bao lâu sẽ bổ xứ đi làm Phật, giáo hóa chúng sanh ở những nơi khác nữa.
Vào đó không còn ai muốn thối chuyển trở ra để làm chúng sanh. Chính giới luật xứ Phật, gương sen! Những ai đã được ở vào trong ấy, không còn lo sợ dính dơ bùn bụi trong giữa cõi trần.
Giáo hội Tăng già: Luôn luôn đi du hành, chớ không ở một chỗ quá ba tháng. Khi đi, đi bộ cả Tăng đoàn, để cho được sự học hành khắp xứ, đủ hạng người và quý nhứt là sự giải thoát chỗ ở một nơi, để dứt bỏ tham sân si ái dục dễ dàng, vì chính nguyên nhân của sự giải đãi, mất đức và phạm giới là bởi ở một chỗ vậy. Trừ ra những kẻ già bịnh mới ở lại nghĩ dưỡng nơi tịnh xá và giữ chừng; cho Giáo hội sau này có chỗ trở lại. Vị sư ở một chỗ, có bổn phận phải dạy dỗ cư gia, kêu là Bồ tát trụ xứ.
Tại chỗ trụ: Trong đó có nhà tịnh xá, xây tháp thờ pháp của chư Phật quá khứ. Tháp phải mười ba từng (vì đức Như Lai là ngôi vị thứ 13 của chúng sanh tiến lên từ nấc), tháp phải mở trống bốn cửa. Nơi đó chỉ để kinh sách hoặc cốt tượng Phật. Tháp bề cao 3m, nhưng rộng vuông 1m80. Tịnh xá phải 8m, vuông bốn phía, hình bát giác. Có nhà giảng thuyết pháp, góc vuông 16m. Có nhà độ cơm nghỉ mát, bề ngang 8m, bề dài 16m (ba cái này gọi là Tam bảo), và có nhà thờ riêng cho cư gia, bề dài 8m, bề ngang 4m.
Phía trước, bên trái có nhà thiện nam, bên mặt có nhà tín nữ. Phía sau, bên mặt có cốc nghỉ chơn cho Ni lưu, bên trái có cốc của Tăng. Có hồ sen, núi đất, có ao rạch hoặc suối, có cây cao bóng mát gió thanh, xa nhà bá tánh trăm thước, trống trải giữa trời, không trồng bông trái. Xa núi, xa chợ, cảnh giữa vườn rừng, đó mới là thiền định đáng làm chỗ trụ. Đất rộng trăm thước, không thú dữ, xa tôn giáo, tránh binh gia, gần xóm người hiền, tránh xa trộm cướp, chẳng cận đường đi, không xây tường gạch, nóc ngói, chỉ cất dùng cây, ván, lá. Cốc phải lót sàn, xa mồ mả trăm thước. Nhà tiêu hướng Đông-Nam, nhà tắm phía Tây-Bắc, nhà bếp để hờ nấu nước, thuốc, phương Đông-Bắc. Chỗ để đồ vật Giáo hội tại Tây-Nam. Mặt tiền Tam bảo ngay phía Tây, lưng trở lại Đông; thiện nam phương Nam, tín nữ phương Bắc. Có cốc Tăng ở chung quanh, có hàng rào cao hai thước làm ranh. Thiện nam, tín nữ, Ni lưu chẳng được nghỉ đêm trong vuông chùa cổng rào, sáng 7 giờ mở ra, chiều 5 giờ đóng lại, để yên cho các sư tu tịnh.
Tại chùa: Những ngày 30, Rằm, mùng 8, 23, các sư có nói pháp cho cư gia, mỗi ngày phải học luật, sám hối, làm công, học pháp từ 3 giờ tới 4 giờ chiều. Mỗi buổi sáng phải đi khất thực từ 8 giờ đến 9 giờ. Trưa 11 giờ độ cơm và đọc kinh tới 1 giờ; khuya, chiều, sáng lo tu tịnh.
Tại chùa: Các sư còn có phận sự phải dạy học chữ quốc ngữ (Hán Việt và Nôm Việt cho tập sự kém chữ). Hoặc dịch sách in kinh cho Giáo hội Tăng già đi du hành, và dạy cho bá tánh sự tu tập.
Tăng chúng phải giữ thứ lớp trật tự màu sắc y bát đồ đạc cho giống nhau. Những ai muốn đi tách riêng tìm chỗ vắng tu tịnh, phải có lệnh Giáo hội cho phép và xem xét kỹ lưỡng, phải cho được trên hai năm thọ đại giới, phải có đủ hạnh, phải chịu khổ cực mới được.
Kẻ ở trong Giáo hội Thinh Văn, gọi là Hữu dư Niết bàn.
Kẻ độc thân Duyên Giác, gọi là Vô dư Niết bàn.
Kẻ bổ xứ giáo hóa lập đạo riêng, gọi là Đại Niết bàn.
Đến chơn như yên nghĩ mới gọi là Vô thượng Đại Niết bàn.
Người tập sự phải hầu thầy và làm công cho Giáo hội, thờ kính các sư để trau giồi thiện căn phước đức nhơn duyên, vừa để cho các sư xem xét tánh hạnh lâu ngày.
Tại chùa, các sư không đi đám tụng kinh; thỉnh thoảng, vì tình cận sự của cư gia, các sư đến thăm bịnh, để nói pháp an ủi mà thôi. Khi có trai tăng, cầu siêu; các sư mới đọc kinh chú nguyện! Thường ngày thì các sư đọc kinh cầu nguyện chung cho cả chúng sanh sau buổi cơm ngọ; khi rảnh, các sư đọc, học kinh để mở trí tham thiền. Và luôn chú nguyện cho chúng sanh trong mỗi lúc, để mở mang trí huệ và tập tâm từ bi tinh tấn.
Sư trị sự ở tại chùa: Có phận sự phải thâu cất giữ y bát, đồ vật dụng cho Giáo hội, lo sắp đặt chỗ nơi cho các sư ở xa mới tới, và chỉ bảo cách cúng kiến cho cư gia, sắp đặt trật tự cho Giáo hội. Ở tại chùa khi nào có công việc làm nhiều, nên chi ai đem đến dâng đổ điểm tâm sáng thì các sư được dùng, bằng không có là thôi, chớ không tự nấu luộc, không được hỏi xin.
Các sư lữ hành đi đường xa khi bịnh yếu cũng được như vậy. Bởi ăn đồ chay thiếu chất bổ, nên chi buổi sáng, nếu có cư gia đem đến họ, thì các sư cũng được dùng, vì sự ăn chay đi bát ít ai cúng được thức ăn tử tế. Ấy bởi sự bất cập của bá tánh mà phần nhiều các sư chỉ nhận được bánh trái đơn sơ, không đủ sức khỏe cho lâu ngày. Vậy nên buổi sáng không cấm hẳn, nhưng vị sư nào nhịn không độ sáng thì lại tốt hơn, vì để rảnh trí tham thiền. Còn những ai làm công việc nhiều, dùng thêm buổi sáng thì khi nào có mới độ, không thì thôi; không được để dành đồ ăn cách đêm.