Thứ Tư, 26 tháng 11, 2025

RTT 32. Sợ Tội Lỗi; Fear of Sin


Đề tài: giảng luận số 32 (ba mươi hai) 
Subject: lecture number 32 (thirty-two)
Sợ Tội Lỗi; Fear of Sin
Tác giả: MINH ĐĂNG QUANG 
Author: MINH DANG QUANG
&&&
Liên kết: RTT 5. BÁT CHÁNH ĐẠO; Link: THE EIGHTFOLD PATH
Theo phiên bản, xuất bản năm 1993; By version, published in 1993; Hiệu chỉnh và dịch sang Anh ngữ, học trò nầy: tự học tiếng Anh LÊ ĐỨC HUYẾN; Editing and translating into English, this student: self-study English LE DUC HUYEN; (Trang 499; Page 516)
RTT19. Học Chân Lý  Learning the Truth
Link: RTT19. Học Chân Lý 
   *&* Tự giam thân trói như ngục tù,
      Biết sợ tội lỗi, là tu đó vậy!
          Đừng nghe, những kẻ nói: bậy,
  Hành vi ngỗ nghịch, la ngầy, chừa ngay!
   *&* Confine yourself like a prison,
    Fear of sin, that's the way it is!
         Do not listen, to those who say: bad,
  Unruly behavior, yelling, stop now!; ☑
Một ông cha kia, có ba đứa con.Another father, had three children.Một đứa con lớn hiền lành dễ dạy, nên thường được sự khuyến khích ban thưởng, để cho nó được mau lên tốt đẹp, của con đường giác ngộ cao quí về sau.An older son is gentle and easy to teach, so he is often encouraged and rewarded, "so that he can be quickly and well, of the noble path of enlightenment later.Đứa kế đó tâm trạng vừa vừa tự nhiên, nên ông không thưởng hay phạt chi cả!; The next child's mood was both natural and natural, so he  didn't reward or punish, no matter what!; Ông cho rằng: đời sống của nó cứ như vậy mãi, là đúng theo sự giác ngộ, và giác ngộ dần dần.; He said: its life goes on like that forever, is right according to enlightenment, and enlightenment gradually; Nhưng chỉ có đứa thứ ba rất nên ngỗ nghịch, tội lỗi, bất kể điều gì cả, nên ông thường răn phạt để giác ngộ luôn luôn.; But only the third child should be very rebellious, sinful, no matter what, so he often  punishes  to be enlightened all the time. ☑
Một hôm đứa con nhỏ ấy, vì sự đánh lộn với người ta, ông cha kêu lại đánh phạt.; One day that little child, because of a fight with people, his father called to punish him.
Ông ấy bảo con rằng Ta sẽ đánh ngươi mười roi, theo như cái tội nặng của ngươi. Nhưng vì ta không có ghét giận hờn oán ngươi, và ta cũng không nỡ thấy con phải chịu đau đớn, ta đánh ngươi là để cho ngươi giác ngộ, bằng ngươi sớm giác ngộ thì ta không còn đánh đủ mười roi, còn sau mười roi mà chưa giác ngộ, thì ta sẽ đánh thêm mãi, cho đến khi nào giác ngộ sám hối, thì ta mới thôi không đánh nữa.
Ông đánh một roi, ông hỏi rằng con còn đi đánh lộn hết? Đứa con làm thinh. Ông đánh một roi nữa, và cũng hỏi: Con còn đi đánh lộn chăng? Cứ mỗi roi ông mỗi hỏi như vậy, đến roi thứ năm, đứa con nói hết, không dám làm việc quấy ấy nữa. Bấy giờ ông thôi đánh, và hỏi xem kỹ lại, coi tại sao nó không đi đánh lộn bậy. Đứa con phải trả lời từng câu hỏi, cho thông, tỏ ra rằng tâm đã sám hối, ăn năn chơn thật giác ngộ, biết thấy rõ sự tai hại sái quấy rồi, thế là ông tha luôn, không còn phải đánh thêm đủ chục.
Nhưng cũng một khi kia, ông hứa đánh nó mười roi, đến khi đã đánh đủ mười roi rồi, mà nó không giác ngộ, ông buộc lòng phải đánh thêm nữa cho đến 20 roi, nó mới chịu nhận ra biết tội.
Mỗi lần trước khi đánh, ông than với con rằng cha sanh con ra, cha là cha tạm, là kẻ đi trên trước nơi khoảng đường đời, nếu cha không dạy bảo chỉ dẫn con là cha có tội với con: về sau này con bị tai nạn khổ sở, là sẽ đổ thừa, cha có sanh, mà không chỉ dạy. Hai nữa xã hội sẽ phiền trách cha, sanh con để phá hại họ.

____ Kính thưa với chư vị, có mặt trong cuộc hội luận, luận đàm thế sự của nội bộ gia đình "cha đánh con".; Dear all, present in the discussion and discussion of internal affairs of the family "father beat son".Thế mà, vài năm sau đứa con, đã giác ngộ, sau khi ông đã chỉ dạy về khoa châm cứu huyệt vị Phương đông.; However, a few years later, the son became enlightened, after he taught the Oriental acupuncture point.; Đứa con đã, viết bài học chánh niệm, như sau:; The child has, written the mindfulness lesson, as follows: 
5. Năm là, nhớ tưởng đạo lý.
5. Five is, remember the moral.
6. Sáu là, nhứt tâm: đại định.
6. Six is, one mind: great concentration.
Và trong bài vở Học Để Tu Hành đó, đứa con, đã viết ra hai câu kệ rằng:; And in that lesson Learn to Cultivate, the son, wrote two verses that:
__Ơn cha như núi Thái Sơn,; Cha đánh con giận, giận hờn yêu thương!
__ Father's grace is like Thai Son mountain,; Father beat me angry, angry love!  
Người cha, hằng ngày, còn bận lo nhiều việc.; The father, every day, is busy with many things.; Nhưng tới giờ, mà đứa con trình bài viết ra cho cha xem!; But now, the son has presented the article to his father!; Ông thấy hai câu viết trên trong vở học, viết bài chánh niệm, bèn ghi vào đó, hai câu cho con, học thêm:; He saw the above two sentences in his notebook, wrote a mindfulness lesson, and wrote two sentences in it for his children to learn more:
__ Một lời chín núi dặm trường,; Lòng không thay đổi, đạo thường: rèn trau!; One word nine mountain miles long,; The heart does not change, the way is often: forged and cultivated!; Vì bản thân ông còn lo ôn lại về cổ ngữ: "nhứt ngôn cửu đỉnh, quân tử bất trung thành: cái chi"?Because he himself was worried about reviewing the ancient language: "One word nine peaks, the gentleman disloyal: what"?Nghĩa là, một lời sái trật, một ly nhỏ của đơn vị đo lường chiều dài, là nó dịch xa: ngàn dặm!; That is to say, one word wrong, one inch of the unit of length, and it translates far: a thousand miles!; Trong việc hằng ngày, mà ông ấy làm, là chuyển dịch ngôn ngữ, văn bản của người xưa đã để lại!; In his daily work, which he does, is translating languages ​​and texts left by the ancients!; 
       Thời gian thấm thoát trôi nhanh, đứa con ngày nào còn thơ dại và ngỗ nghịch, đã trưởng thành (công dân 18 tuổi đời).; Time passes quickly, the child who was still a child and rebellious, has grown up (citizen 18 years old).; Việc học đạo, cũng như lớp học ở đời, cũng vậy, ông tăng dần nội dung bài viết chánh niệm, cho đứa con, là như sau:; The study of the Way, as well as the class in real life, too, he gradually increased the content of the article on mindfulness, for the child, as follows:
Chanting verses: Entering concentration
Một phân biệt sự lành với dữ,
Hai tinh tấn, tự mà tiến lên!
      An lạc, đạo đức, ơn trên,
Con xin Chánh niệm, vững bền: thanh tịnh.
*&* A distinction between good and evil,
Two efforts, go ahead on your own!
       Peace, morality, grace,
I ask for Mindfulness, steady:  pure.
Bốn phục tâm ý mình làm lành,
Năm nhớ đạo lý, trong chúng sanh.
       Nhứt tâm đại định thực hành,
Hành giả, tọa thiền, ngưng sanh: vọng tưởng!
*&* The four subjugate your mind to do good,
Five remember the moral, in sentient beings.
        One-pointedly practicing samadhi,
Practitioners, zazen, cessation of birth: delusion!
Viết bài chánh niệm thường xuyên niệm,
Niệm bất ly tâm, nghiêm luật giới.
       Dứt bỏ phiền não: đạo, đời,
Vui chịu mọi cảnh ngộ,...ơi tham-thiền!
Write a mindfulness post regularly reciting,
Mindfulness without distraction, strickt precepts.
        Get rid of afflictions: religion, life,
Happy to bear all circumstances,...oh, meditating!; ☑
*&*
        Nhưng trước khi giác ngộ tội lỗi, chán nản và sợ sệt về tội lỗi, thì phải hiểu, chơn lý về nhân quả và quả báo!; But before becoming enlightened with sin, depressed and afraid of sin, one must understand, the truth about cause and effect!; Vì lẽ ấy mà cha muốn cho con giác ngộ công lý, nhơn quả, quả báo, cũng như con làm khổ người ta, là sau này con sẽ bị người ta làm khổ lại nhiều hơn: vậy cha không muốn cho con làm tội thêm nhiều, để khổ mãi. Vì thương con mà cha phải dạy! Cha sẽ thưởng, khuyến khích con khi con làm phải; cha sẽ phạt hăm dọa con, khi con làm quấy! Ân oai ấy là để cho con giác ngộ công lý, nhơn quả, quả báo mà thôi. Hôm nay cha đánh con, tức là thay mặt công lý, nhơn quả, quả báo, cha phạt con trước là để cho con đừng phạm thêm tội nặng quả báo to nhiều đó. Ông ấy mỗi lần đánh một roi, là hỏi nó một lần, tuy ông nói đánh mười roi theo luật quả báo, nhưng cũng có khi ông chỉ đánh nó năm sáu roi, hoặc hai ba chục roi, tùy theo tâm ý đứa con, lúc nào nó đã giác ngộ, hay chưa giác ngộ. Mỗi lần sau khi đánh dạy xong, là ông khóc, vì thương con đau đớn, và ông nói rằng:

___ "Ông ấy cũng ác quá, làm đau khổ con, tâm ông bằng quen tánh dữ ấy, thì sau này không tránh đâu, tội lỗi; công lý nhơn quả, quả báo vậy!" 

___ He's also too evil, hurting me, his mind is familiar with that evil nature, then there's no way to avoid it in the future, sin; justice, cause and effect, retribution!"

Nhưng nếu không đánh là không được, sự đánh ấy là cứu nó; cũng là ghi sâu kỷ niệm vào nơi da thịt đứa con, cho nó nhớ ngày giờ năm tháng ấy, nó có được dạy, dầu sau này, khi ông chết đi, nó bị khổ nạn, nó tự vui lòng chịu lãnh lấy, khỏi phải thán oán ông cha. Và cũng như sự phân chứng ngày giờ răn dạy con ấy, với xã hội; dầu sau này, lớn lên nó làm quấy, là người ta phiền trách nó, chớ không ai buộc tội ông cha đặng. Đó là bổn phận kẻ tiên sanh trên trước, đối với hậu sanh thấp sau, phải như thế! Trong mỗi khi đánh phạt con, ông hỏi con sợ cái chi mà không dám làm quấy nữa đó? Đứa con nói sợ ông là ông không chịu, vì ông đâu phải là kẻ quá ác, mà dầu ông có ác, thì cái ác ấy, trong đời đâu có ai phải sợ! Đứa con nói sợ cây roi, ông cũng không chịu nữa, vì roi sẽ gãy, và ông sẽ chết, mai kia đâu còn cha và roi, rồi chừng ấy sợ cái chi, để cho được tránh xa nạn khổ? Vả lại tiếng cha con là tạm trong mỗi kiếp, chớ tất cả là chúng sanh không có đầu đuôi, thì đâu phải bảo ai sợ ai, còn cây roi đâu phải tự nó gặp ai đánh nấy mỗi lúc, mà đi sợ. Bây giờ ông bảo con phải biết sợ tội lỗi là hơn hết. Vì người không tội lỗi, thì trong đời không còn có tiếng ông cha, hay cây roi chi nữa cả. Vả như khi phải bị quả báo khổ đau, mà cho là xấu hổ, thì người ta nên phải biết hổ thẹn tội lỗi trước, là không bao giờ có sự tủi nhục về sau.
Cho đến một khi kia, đứa con khờ dại tội lỗi đã đến thái quá, ông cha buộc lòng phải đóng cũi nhốt đứa con lại. Ông nói với nó, nó phải đền tội chịu nhốt mười năm theo luật nhơn quả, nhưng ông có thể thả nó ra trước mười năm, nếu nó đã giác ngộ sớm, còn bằng đúng mười năm, mà nó chưa giác ngộ công lý, là ông không bao giờ thả ra để nó hại nó, và cả thiên hạ mà phải nhốt thêm mãi mãi, hoặc tới chết, hay bao lâu tùy theo sự giác ngộ biết sự tội lỗi, biết hổ thẹn tội lỗi của nó.
Như thế nghĩa là ông không có bất công, oán ghét đứa con, mà bắt buộc phải đánh đúng số mười roi, hay phạt nhốt đủ mười năm, nếu khi đứa con đã sớm hối quá.

Ông cha ấy cũng tức là chơn lý võ trụ vậy!; That father is also the cosmic truth!

Kìa một ông thầy dạy học, tiên sanh có bổn phận phải dìu dắt trẻ nhỏ hậu sanh, kẻ đi trước phải dắt dẫn người đi sau, theo luật sống chung, phải sống, phải tiến, học dạy cho nhau, xin cho lẫn nhau để một ngày kia cùng đến nơi mục đích nghỉ ngơi, an lạc.
Một ông Diêm vương quan tòa nói với tên cướp sát nhân rằng ngươi đã giết mất trong xã hội một mạng người, ngươi đã có tội với chơn lý, phải sanh, phải tiến của võ trụ. Ngươi đã phạm tội sát sanh, với cả chúng sanh chung sống, linh hồn kẻ kia, đang chờ đợi uất tức vì ngươi bởi ngươi chặt đứt con đường sống và tiến của họ, nên họ thù oán ngươi, là tại sao ngươi có lời nói, mà không chịu nói bảo họ, việc phải quấy, cho họ nghe, ngươi không sanh ra được người, thì sao ngươi có quyền lại giết hại, và việc ác của ngươi làm ấy, có phải chăng là xúi kẻ sau này tập noi bắt chước, bỏ càng công lý. Phải chăng là ý ngươi đã không muốn sống, không muốn có cõi đời loài người, ngươi muốn chết, nên ngươi muốn cho tất cả đều chết hết. Nhưng ngươi lầm, chỉ có một mình ngươi muốn chết thôi, chớ tất cả đều muốn sống cơ mà! Vậy thì ngươi muốn chết, thì tự một mình ngươi phải chết đi, để cho tất cả được sống với.
Người phải tự xử lấy, như cách mà ngươi đã giết kẻ kia, là theo ý muốn của ngươi, muốn cho ai ai cũng phải chết bằng cách ấy, có như thế linh hồn kẻ kia mới không oán thù ngươi nữa; linh hồn ấy sẽ hả dạ mà cho rằng ý muốn của ngươi có thật hành đúng, ngươi không có dối họ, để gạt họ chết, đặng ngươi riêng sống; linh hồn ngươi và linh hồn kẻ kia, sẽ kết bạn với nhau mà đi qua con đàng lạ khác, do sự quyến rũ của ngươi. Như thế là ngươi phải theo chơn bạn ngươi. Ngươi phải tự xử lấy, cũng là để cho ai nấy khỏi phạm tội sát sanh thêm nữa; ngươi hãy tự xử đi, vì không còn ai đã dám sống gần ngươi nữa rồi, hành vi của ngươi đã bảo với người ta như thế, vậy nên ngươi phải thật hành đúng với bổn nguyện, đừng cho thất tín, thì mới mong được đời sau hay cảnh giới khác, ngươi sẽ trở nên tốt đẹp và được kết quả thành công hạnh phúc trở lại. Điều ấy chắc ngươi không còn có lẽ gì phiền trách ai cả. Tại sao vậy? Vì ý muốn chí nguyện ngươi đã như thế! Việc tự xử của ngươi lại là công đức quí ích cho đời sau, nhờ xem gương đó, mà họ tránh khỏi ý tưởng lạc lầm vô lý ấy. Như vậy là đối với tiếng sát sanh, phải tự mình thường mạng, sau này ai ai cũng sợ lắm, không còn ai dám giết hại ai nữa, dầu phải hay quấy cũng vậy. Và người ta sẽ biết tập nói lời dịu ngọt với nhau cõi đời từ nay sẽ càng đông nhiều, sống, tiến, tới cảnh an lạc được.
Cái chết của người ấy, quý ích lắm, rất hay ho đáng nên chết lắm, cái chết có giá trị, có danh dự lớn lắm. Ngươi nên biết rằng đối với lẻ sống và tiến tới thì nên thêm chớ không nên bớt, như vậy là phải thiện chớ không nên ác, ngươi phải vui chịu đi!!! À ngươi đã nhận chịu cái chết ấy rồi. Vậy thì bây giờ đây, đối với lượng khoan hồng của tất cả, không ai muốn cho ngươi phải chết nữa cả, nếu ngươi đã giác ngộ; ngươi đã giết mất một người trong xã hội, khi họ chưa tới tuổi phải tự chết, sự ấy là dĩ lỡ rồi, đâu còn ai nỡ lòng nào bảo ngươi phải chết nữa, để cho thiếu mất thêm mạng thứ hai, làm thưa thớt xã hội. Trong xã hội sẽ phải buồn, vì mất thêm ngươi, thiếu ngươi, thiếu tay chân sức mạnh.
Ngươi đã thật nghĩ sao? Đã thật giác ngộ chăng? Đã muốn sống chung tiến hóa chưa? Đã thật hối quá chưa? Đã thật bỏ ý quấy ấy chăng? Bây giờ đây có một cách mà ngươi sẽ sống: cách sống ấy như vầy: Cũng như ngươi đã chết theo cùng với người kia rồi, bây giờ đây là ngươi mới tái sanh trở lại. Ngươi phải thờ người kia đặng xin tội, ngươi phải vái nguyện người kia, hoặc Đi Tu hay mau tìm sanh thai trở lại. Tự ngươi phải tỏ ra cho tất cả chúng sanh đều biết rằng là ngươi đã sám hối cải lương, đã trọn thiện, đã tu! Bằng sự ngươi phải tu trì tám giới trường chay trong sạch, trọn đời không ai giết đến mạng thú vật, và thay cho người kia, ngươi phải lo lắng giúp đỡ cho gia đình họ, y như người kia còn sống, thêm sự phải lập công đền tội, đối với xã hội các việc phước thiện, cứu người.
Ngươi phải gánh lấy hai phận sự, của hai người, đối với hai gia đình và xã hội; mà không đặng vô lễ đối với người trong gia đình kia. Ngươi phải hạ mình thấp như trẻ nhỏ mới sanh, để cho mọi người được thương mến, và nhìn nhận trở lại, thì mới được! Như vậy là sự sống còn của ngươi sau này, không được cao ráo hơn ai cả, phải như sự đã chết đi, rồi mới sanh trở lại, trở lại để tập tu, làm công việc phước thiện giúp ích cho đời, và thay thế kẻ kia, xin tội với kẻ kia mới phải. Ngươi nên biết rằng trong hai điều này công lý bảo phải như vậy, việc làm của ngươi đã bảo ngươi như vậy. Ngươi không nên sợ chi hết, ngươi từ nay phải biết sợ tội lỗi thôi. Hôm nay ngươi đã phải bị chạm lòng tự ái, hôm nay ngươi đã thấp thỏi, mất tự chủ, hôm nay ngươi đã ở trong cái hổ thẹn ghê tởm, là bởi nơi sự tội lỗi sái quấy của ngươi đã làm ra.
Ngươi không nên sợ Diêm Vương quan tòa, vì Diêm Vương quan tòa cũng là linh hồn, là người, là chúng sanh như ngươi thôi; nhưng khác hơn ngươi, là Diêm Vương quan tòa đã giác ngộ chơn lý, công lý, nhơn quả, quả báo, luật sống chung tiến hóa. Ngươi nên phải biết sợ tội lỗi của ngươi. Ngươi chớ ghét giận Diêm Vương quan tòa, vì Diêm Vương quan tòa, là người nhơn danh pháp luật công lý của võ trụ, thay thế cho cả chúng sanh chỉ lo giác ngộ cho người mê muội, cứu người lầm lạc, chớ không có ghét giận ai cả.
Sao gọi là cứu? Vì nếu không có Diêm Vương quan tòa, thì kẻ sái quấy, càng sa đọa sái quấy mãi, gây lớn tội hoài, để phải mau bị nạn khổ lớn to tiêu diệt cả linh hồn, và nhiễm hại hết thảy chúng sanh; cũng như có một con sâu, trong một cái trái, nếu không có người bắt, sớm bỏ đi, là sau này cả cây đều hư hoại hết. Có Diêm Vương quan tòa, người tội lỗi mới không làm sái quấy to tát tới mãi được, thì người tội sẽ tránh được những nạn khổ, quả báo to lớn về sau vậy. 
Ngươi nên biết rằng, Diêm Vương quan tòa cũng như ngươi, chỉ giác ngộ chỉ đường cứu ngươi thôi, chớ không có quyền ép buộc vì trong đời không ai có quyền với ai hết, tất cả chúng sanh đều tự do, sống riêng, trong mỗi xác thân mà thôi, nếu Diêm Vương quan tòa chém ngươi, hoặc bảo sai dịch giết ngươi, thì ra Diêm Vương quan tòa cũng ác, cũng phạm tội sát sanh, hoặc xúi sai dịch sát sanh chung tội, rồi còn ai lại đi chém giết Diêm Vương quan tòa, sai dịch ấy, trả lại nữa, công lý quả báo nhơn quả, đâu có tha chừa riêng các ông ấy. Các ông đã cầm pháp luật, thì đâu có đi phạm pháp luật, vần công xoay tròn mãi mãi.
Vậy trong hai điều: sống khổ và chết vui, ngươi muốn sao cũng được, tự ngươi xử lấy, không phiền trách ai cả. Cũng như ngươi thiếu nợ, trả sớm, thì trả ít, được vui: chưa trả là trả nặng, khổ lắm, ví bằng ngươi có muốn chết đi, trong xã hội phải ít thiếu một người, cũng có hơi tiếc một chút, nhưng thà phải vậy, mà đỡ tai hại cho ngươi, và cho tất cả, ai ai cũng được an tâm hết. Chớ đông nhiều mà rối khổ hết thảy, thì có hay hơn gì đâu! Còn bằng ngươi muốn sống, thì phải tu hành học đạo, đoái công chuộc tội mới được.
Cũng nhờ sự giảng giải rõ chơn lý của Diêm Vương quan tòa, mà người tội nhơn kia, rất vui lòng tự xử, không dám trốn tránh chi cả, mà còn lại mến trọng ân đức nữa: Vì vậy mà xưa kia các tội nhân, phạm tội nhẹ, tự mình xin nhốt trói, để tập răn phạt tu tâm sám hối.
*&*
*&*
[506] Thuở xưa, có kẻ tự xin ở tù mười năm, mà mới được năm bảy năm, tâm đã được tốt đẹp!; Once upon a time, someone asked himself to be in prison for ten years, but after only five or seven years, his mind was already good!; Nên tất cả thiên hạ đều cầu xin người ấy hãy đi ra thong thả, để làm việc ích lợi cho đời, khỏi phải sự nhập Tịnh-Thất trói tù vô ích nữa.; So all the world begged that person to go out leisurely, to do useful work for the world, not to have to enter the Pure-Seven imprisonment in vain anymore.; Lại cũng có kẻ như đã đúng mười năm, mà tâm chưa trong sạch, thì họ tự ở tù cấm cố thêm, hoặc đến bao lâu, hoặc trọn đời chẳng hạn như vậy!; Cho đến khi nào tâm được chánh thiệt lớn tròn, thì mới chịu đi ra ngoài làm việc; Ngày xưa tự những kẻ ấy muốn như vậy, và tất cả chúng sanh cũng muốn cho những người ấy phải như thế. Những kẻ ấy tức là những người đã giác ngộ, những người tu, những người không tự cao bướng bỉnh, những kẻ ấy đứng ngoài pháp luật, tự họ đã biết cầm pháp luật lấy họ rồi, tự họ tập làm chủ lấy, tự cải thiện lấy, khỏi phải nhờ đến Diêm Vương quan tòa dạy nữa. Những người tu ấy tập sống đúng chơn lý, tâm địa thật hoàn toàn tốt đẹp được, là nhờ tự mình hằng xét thấy lỗi luôn luôn, tự mình răn phạt, tự họ tránh xa trần tục không cho lem lấm, nên mới chắc tin được mình trong sạch. Các bậc ấy phải không còn ở trong đời vật chất của xã hội gia đình nữa. Họ đi tu trong rừng sâu, ngồi nhập định tham thiền, tự mình như sự ở tù chịu phạt lấy mình, để mong chờ một ngày giải thoát sau này, cho được hoàn toàn quý báu tốt hay ích lợi là đạo vậy.
Bởi thế cho nên những người tu, hay là những người tù khi xưa, họ nhốt trói là để trau tâm, chớ không phải bị ai oán ghét, mà bắt bỏ tù, buộc phải đúng y theo số năm nhứt định, để hành phạt xác thân vô ích; vì đời nào kiếp này, tâm vẫn còn tội lỗi mãi, mà lại không biết sợ, và chưa có được ai dạy bảo chi cả. Đời sau này ít ai hiểu được lý nghĩa của người tù là tu, mà muốn tu là phải học, muốn học là phải nhờ ông thầy dạy.; In later life, few people understand the meaning of the prisoner is to practice, but if you want to practice, you have to learn, if you want to learn, you have to ask the teacher to teach you. ☑✔
Ông thầy, cũng như Trời, như vua, như Diêm Vương, quan tòa, ông thầy là kẻ tiên sanh đi trước là khách bạn đồng hành, chớ không giai cấp chi cả của tự xưng; kẻ đi sau mà tôn kính là để được xin vâng nghe lời chỉ dạy; trẻ nhỏ mà sợ là sợ tội lỗi, hổ thẹn là hổ thẹn tội lỗi, chớ không phải sợ và hổ thẹn ai cả. Luật sống chung tiến hóa, không có quyền hành chi hết, vì ai nấy cũng như nhau, kẻ biết mình tội lỗi, là tự họ chịu ở tù để tu, lâu mau là bởi tại tâm, chớ không ai dám lập thế mưu hành bắt phạt người ta, để phải quả báo sau này, bị người bắt phạt lại mình vô ích.
Xưa có một vị vua trời, biến ra một đạo sĩ, đến nói với một nhà vua rằng tôi không tin rằng ông dám bắt phạt tôi, nếu tôi có tội. Nhà vua hỏi tại sao vậy? Đạo sĩ đáp: Tôi đã nói là tôi có tội, nghĩa là tự tôi đã biết tội, đã giác ngộ, đã biết sám hối, hối quá. Từ nay sắp tới, tôi còn làm tội, là tôi bị quả báo, tôi sẽ vui lòng chịu lãnh lấy, tôi không còn phiền trách ai nữa rằng những kẻ đi trên trước, thiếu bổn phận, ích kỷ không dạy chỉ lại cho tôi. Như vậy thì tội gì các Ngài trên trước phải lo cho tôi hoài chi nữa. Vì bởi các Ngài đâu có ác, đâu có oán ghét riêng tôi, các Ngài đâu còn không hiểu công lý, nhơn quả, quả báo của chơn lý vũ trụ; các Ngài đâu dám tự ý phạt tôi, các Ngài phạt tôi, ai phạt lại các Ngài? Tôi làm khổ người ta, tôi có tội, còn các Ngài làm khổ tôi, các Ngài sao lại không có tội. Không lẽ là sự phạt tội vần công?
*&*
Cũng không lẽ làm bậc trên trước, là phải tự chịu phạt tội trước, để cho dưới sau tôi bắt chước noi gương, đặng mới chịu tội phạt. Trong đời nếu tôi có tội mà bổn phận người trên trước nếu không dạy răn tôi, là sẽ có tội với tôi kẻ đàng sau; tôi sẽ than van phiền trách, nên các Ngài vì sợ tội, vì thương tôi, chiều ý tôi mà dạy phạt tôi, để cho tôi giác ngộ, khi tôi đã giác ngộ rồi, là từ đó, cái sống của tự tôi, tôi chủ định, không than phiền ai nữa, và người trên trước thì cũng đã rồi xong, hết phận sự đối với tôi rồi. Hôm nay tôi đã giác ngộ rồi, thì phận sự các Ngài cũng đã hết đối với tôi rồi, các Ngài còn cố phạt tôi nữa mà làm chi, không lẽ các Ngài giận riêng tôi. như thế thì còn chi là bậc trên trước, và các Ngài đâu có không sợ quả báo, mà làm khổ tôi. Bởi các Ngài sợ quả báo nên tôi nói là chẳng dám phạt tôi nữa vậy. Vì sao; Vì thưởng cũng là để cho giác ngộ tránh xa tội lỗi. Phạt cũng là để cho giác ngộ tránh xa tội lỗi. Bằng không thưởng, không phạt cũng là sự giác ngộ không làm tội lỗi. Vậy thì tôi đã giác ngộ rồi, tôi mới nói ra lời ấy chớ. Các Ngài cũng đã giác ngộ rồi, mới được làm trên trước, thay mặt công lý của cả chúng sanh trong vũ trụ chớ. Như thế là tôi chỉ sợ tội lỗi hơn hết, và nếu lỡ phạm tội lỗi gìn giữ không được, là tôi đáng hổ thẹn tội lỗi, còn các Ngài cũng như vậy, cũng chỉ có sợ tội lỗi và hổ thẹn, tội lỗi mà thôi. 
LINK: "The Lord of the Rings" 
Vị đạo sĩ ấy nói xong, biến mất!; After the Taoist finished speaking, he disappeared!

      Và từ đó, nhà vua đã được giác ngộ, thấu rõ chơn lý, lần lần tu hành đắc đạo, thành Phật hiệu là Thích Ca Mưu Ni Phật.; And from then on, the king was enlightened, understood the truth, gradually attained enlightenment, became a Buddha with the name Shakyamuni Buddha.; Vị vua trời ấy nói như vậy nghĩa là: bảo đừng ai sợ ông Trời hết, mà dầu ông nào đi nữa, thì cũng chỉ có sợ tội lỗi mà thôi.; That king of heaven said so: he told no one to be afraid of God, but no matter who he was, he was only afraid of sin.; Thế thì chúng ta nên phải chỉ biết sợ tội lỗi, là đúng, phải lắm, quý ích lắm!; Then we should only be afraid of sin, right, right, very useful!

CHÚA TỂ; LORD

Vấn: Phải chăng ông Trời là lớn hơn hết?

Đáp: Phải! Ông Trời là lớn hơn hết, cũng như người lớn, ông cha, là lớn hơn hết!

Vấn: Phải chăng ông Trời sanh ra loài người?

Đáp: Phải! Ông Trời sanh ra loài người, cũng như người lớn, ông cha, sanh ra con nhỏ vậy.

Vấn: Còn Phật đối với Trời thì sao?

Đáp: Nhơn loại như trẻ nhỏ, chư Thiên là người lớn, Phật thì không lớn không nhỏ, vì Phật là ông già. Phật cũng như ông thầy giáo. Không có lớn nhỏ, cũng không có sanh diệt ai cả.

Vấn: Trời có diệt loài người chăng?

Đáp: Có! Hễ có sanh thì tất có diệt. Cũng như ông cha có con, con ngỗ nghịch quá thì giết, chớ không lẽ để làm hại thiên hạ, cho ổng mắc tội lớn với tất cả.

Vấn: Trên Phật là gì?

Đáp: Không có chi trên Phật hết, cũng như không có chi trên ông già nữa.

Vấn: Trời sẽ đi đến đâu?

Đáp: Người sẽ đến Trời, Trời sẽ đến Phật. Còn Phật thì không có luân hồi trở lộn lại lớp người.

Vấn: Loài người nên theo Trời hay Phật?

Đáp: Khi còn nhỏ còn ác, thì phải theo cha theo Trời, lúc lớn đã thiện là Trời thì đến với Phật. Cũng như cái tuổi của người! Từ nhỏ, đến lớn, đến già, thời gian nhơn duyên xô tới, dầu ai muốn cố cượng cũng không được.

Vấn: Vậy sao người ta nói Trời lớn hơn Phật, Trời sai khiến Phật, Trời cao hơn Phật?

Đáp: Thì như trên đã nói: Trời là người lớn, thì lớn chớ sao. Còn nói Trời sai khiến Phật, là vô lý, vì không có người lớn nào sai khiến ông già cả! Không có ông cha nào ra lệnh bảo ông thầy cả. Vì Phật là ông thầy giáo chung cho cả chúng sanh, chớ đâu có riêng cho một ông cha Trời, để ăn tiền lương bổng, mà phải nô lệ ông cha.

Vấn: Cõi người, Trời, Phật giáo lý như thế  nào?

Đáp: Cõi người là phạt, cõi Trời là thưởng, cõi Phật là không thưởng không phạt, đúng theo chơn lý yên lặng tự nhiên thôi. Cõi Phật không có tương đối thưởng phạt thay đổi nữa.

Vấn: Phải chăng cõi Trời còn luân hồi?

Đáp: Hễ cái chi còn tương đối là còn luân hồi, thay đổi. Hễ cao thì có thấp; Hễ lớn thì có nhỏ; Hễ mạnh thì có yếu; Hễ tốt thì có ngày xấu chớ sao?

Vấn: Phải chăng trong lịch sử Phật có nói: các vị vua Trời đi hầu Phật nghe thuyết pháp và cúng dường?

Đáp: Việc ấy cũng như các ông cha, cũng có đi nghe ông thầy giáo giảng dạy. Các ông cha phải cung dưỡng ông thầy, ông thầy mới ở lại dạy chớ sao! Cũng như khi ông thầy dạy học, các ông cha muốn học thì phải hầu, phải cung kỉnh mới có vâng lời được học đắc thành vậy!

Vấn: Vậy sao người ta nói cõi Trời có hội, Phật cũng phải đi thính dự?

Đáp: Điều ấy giống như các người lớn nhóm họp, để bàn việc ích lợi, thì người ta phải thỉnh ông già đến đó, ngồi lặng thinh chứng kiến, chỉ bảo giùm. Chớ tự ổng đâu có đi tới chầu chực xin tiền bạc quan chức chi đâu. Các ông đâu có tự mình đi tới chỗ danh lợi ấy.

Vấn: Như vậy tại sao người ta nói: tại thiên đường ông Trời lớn ngồi trên, có oai quyền hơn Phật?

Đáp: Thì phải như vậy, tại chỗ thiên đường của Trời, cũng tại đền vua, tại nhà của ông cha người lớn, thì mấy ổng làm chủ ngồi trên nói lớn, và phải có oai quyền võ lực. Nếu có một ông già, ông thầy giáo nào mất hạnh, ham ăn uống, ham chức phận, quên mình là già là Phật, thì phải ra vào lòn cúi chỗ thiên đường! Cũng như một vị hòa thượng muốn thôi tu, thì phải đi lòn cúi vua quan chỗ giàu sang thế lực, đặng xin cầu danh lợi, là phải quỳ lạy trở lại người lớn kia vậy. Mà trái lại tại xứ Phật, hay như trong ngôi chùa kia, bằng có ông vua, ông cha, ông Trời nào, muốn xin vào tu học, thì cũng phải khom mình, chịu sai khiến răn dạy, do bởi ông già, ông thầy, ông Phật trở lại.

Nhưng từ xưa cho đến nay, ông già, ông thầy, ông Phật, mà theo ông cha người lớn, ông Trời, là không có, là trái ngược; còn ông cha người lớn, ông Trời, dầu không ai bảo đi nữa, tự mấy ổng khi khổ sở thất bại, là phải đi tìm kiếm xin theo ông già, ông thầy, ông Phật.

Vấn: Vậy sao người ta nói Phật, Bồ Tát còn phải đi chầu Ngọc Hoàng?

Đáp: Phật là Như Lai toàn giác Phật Tổ, mới là ông già, ông thầy, trên ông cha, người lớn, ông Trời. Còn Bồ Tát Thánh kêu là Phật tử, con Phật. (như đức Quan Âm chẳng hạn) là địa vị ngang với Ngọc Hoàng vua Trời, nhưng một đàng tu văn kêu là Bồ Tát, còn một đàng tu võ kêu là vua Trời, hai bậc ngang nhau, tới lui với nhau, chớ đâu phải đi chầu chực hầu hạ thiên hạ.

PHẬT NHƯ LAI

Bồ Tát

 Chuyển Luân Thánh Vương

Bích Chi

 Vua Trời

A La Hán

 Vua Người

A Na Hàm

 Chư Tiên

Tư Đà Hàm

 Quan lại

Tu Đà Hườn

 Trưởng giả

(ĐẠO) hết lo

(ĐỜI) còn lo,

Vấn: Có phải Trời lo cho người chăng?

Đáp: Phải! Việc của loài người, việc nhỏ thì tự loài người lo, chớ việc lớn thì Trời lo. Cũng như một ông cha có con, hay như anh đối với em, cha anh là phải lo lấy mình, và bổn phận là con phải giữ gìn cho con em nữa, cũng như một đứa tớ gái kia, giữ em nhỏ, lúc em nhỏ đang vui chơi yên ổn, là đứa tớ gái ấy nó chỉ lo việc của nó, thỉnh thoảng lâu lâu ngó chừng em nhỏ một lần thôi! Nhưng khi có chuyện lớn, em nhỏ bò ra mé ao, sắp té chết, thì đứa tớ gái ấy, mới quên mình, bỏ chạy lại lo cho đứa em nhỏ, những bậc Trời, người lớn, ông cha, hằng tự đem mình làm nghĩa vụ như tôi tớ, để lo cho nhơn loại, cũng y như vậy, lấy đó làm việc làm của các Ngài, mới không mắc tội với lương tâm, vì nhơn loại, em nhỏ, con dại chết khổ, mà các Ngài lại ở không ích kỷ là có tội. Bởi các Ngài lo cho nhơn loại trong những việc lớn lao can hệ ấy, nên người ta mới gọi các Ngài là Trời, Trời là hay cứu vớt và nuôi dưỡng nhơn loại. Cũng như cha, anh nuôi sóc con em.

Còn về sự dạy độ nhơn loại con nhỏ, là phần của Phật, ông già, thầy giáo, chớ cha, anh, ông Trời, người lớn, thì khó dạy con em đặng, vì cha anh cũng còn phải học thêm nữa, chớ oai quyền không bằng giảng dạy.

Bởi vậy cho nên người ta nói: Phật là lo cho Trời, Trời là lo cho người, người là lo cho thú, thú là lo cho cây, cây là lo cho cỏ, cỏ là lo cho đất, đất là lo cho nước, nước là lo cho hơi, hơi là lo cho không. Vì Phật dạy người thiện chớ không dạy kẻ ác được. Trời là dạy trị kẻ ác, chớ không dạy trị người thiện được. Còn người là dạy trị thú thì được, chớ khó dạy trị người. Như vậy trước là có Trời dạy trị tạm sơ kẻ ác, cho trở lần lên thiện; rồi sau đưa qua Phật, Phật mới dạy kẻ thiện ấy, cho thành giác ngộ được.


Con chim & Cành đào;
The Bird and the Peach Branch
Vấn: Tiếng Trời nghĩa là gì? Tiếng Phật nghĩa là gì?

Đáp: Tiếng Trời là của nho giáo xứ Tàu, chỉ rằng Trời là bậc thanh cao quảng đại thiện lành lớp trên, người lớp ông cha. Tiếng Phật là của Phật giáo xứ Ấn Độ, chỉ rằng Sự giác ngộ, biết gặp chơn lý lẽ thật của võ trụ, biết qua khắp cả, không còn bị cái tối mê che đậy, là ông thầy già kinh nghiệm. Trời và Phật khác nhau là ở chỗ: Người lớn thì còn đang học, còn đang lo việc thế sự, còn khổ não; còn ông già thì hết học, hết lo thế sự, không khổ não nữa, đã trở lại sự yên lặng tự nhiên như hưu trí, như nín nghỉ, như không nói làm, như giải thoát, như không vọng động, của chơn lý, lẽ thật võ trụ là y như vậy. Cũng không có chi là hữu ích vô ích nữa cả. Trong cái yên lặng không có cái hay dở, cao thấp tốt xấu, phải quấy, lớn nhỏ, hơn thua, trên dưới… chi hết.

Vấn: Ông Trời sanh ra chúng sanh vạn vật bằng cách nào? Sanh để chi? Còn ông Trời ai sanh?

Đáp: Lý thì nói như vậy, còn sự thì chẳng phải. Chúng sanh tiến ra từ nơi vạn vật, từ không đến khí, đến thủy, đến địa, đến hỏa, đến phong; tứ đại đất nước lửa gió dung hợp, sanh ra ba pháp, sống, biết và linh; cái sống là vạn vật tứ đại có lửa mới có sống, do đó mới sanh, linh và giác! Chúng sanh tiến lên từ cỏ đến cây, đến thú, đến người, đến Trời, đến Phật; cũng như từ trong bụng mẹ, chất tứ đại tinh hoa mới tượng hình, sanh ra, lớn lên và đến già; sự sanh ra bao giờ cũng từ dưới tiến lên, chớ không phải ở trên đâu đâu nhảy xuống. Cả thảy chúng sanh vạn vật các pháp đều từ nhỏ đến lớn, từ dưới lên trên, chớ chẳng có cái chi ở đâu đâu nhảy ra được; cái gì cũng phải có nhơn duyên hết. Người ta mà nói ở trên đi xuống, nghĩa là ông già chết nhập thai lại, lộn kiếp làm trẻ nhỏ trở lại, chớ chẳng phải khi không mà có ông già! Người ta nói Trời sanh ra chúng sanh vạn vật, chớ chẳng phải một ông Trời, Trời là thiện làm cho tất cả đều sống, tất cả mà có ra, là bởi nơi cái lẽ thiện, nên ví dụ là Trời sanh. Còn đất là ác, cái ác làm cho tất cả đều chết, tất cả mà không có ra, là bởi nơi cái lẽ ác, nên ví dụ là đất diệt. Đó là câu nói trời sanh đất diệt, thiện sanh ác diệt, chớ chẳng phải ông Trời ông Đất. Nhưng người ta cũng nói: Người thiện là ông Trời, người ác là bà Đất, là bởi đất ác sanh thân như mẹ, trời thiện sanh trí như cha, còn Phật giác chơn sanh tâm như thầy giáo; cho nên nói kẻ nào sống bằng tâm là con của Phật, sống bằng trí là con của trời, sống bằng thân là con của đất, con nào sẽ theo cha mẹ thầy nấy! Đó là lời so sánh pháp lý mà thôi. Chớ không phải là chỉ riêng một ông bà thầy nào! Một ông Trời cũng như ông vua hay người lớn ông cha, đâu phải tự nhiên ổng có, ổng cũng phải có nguồn gốc cha mẹ, và ổng chỉ coi sóc làm thiện giúp đỡ người ta, do họ tôn lập, chớ đâu phải ổng tự xưng, và đâu phải ổng sanh sản ra tất cả? Sanh ra để chi? Và ai sanh ra ổng, nếu ổng tự nhiên có, thì cả thảy cũng tự nhiên có chớ, sao lại ổng phải cần sanh người ta, ích lợi chi cho ổng?

Vậy thì lẽ thật đã chỉ ra rằng tất cả ai ai dầu bậc nào: Phật, Trời, người, chúng sanh cả thảy, sanh ra là bởi tại nhơn duyên tập, từ dưới lên trên, vốn không có mục đích. Nhưng bởi có cái biết, là mục đích phải học, toàn giác, có cái linh, là mục đích phải đắc thần thông chơn như; có cái sống, là mục đích phải sôùng mãi; còn cõi đời có đủ các pháp vạn vật tức là trường thi học dạy! (Tứ đại sanh cỏ, cỏ sanh cây, cây sanh thú, thú sanh người, người sanh Trời, Trời sanh Phật). Người là nhơn ái, Trời là thanh thiện, Phật là giác chơn, như vậy là ai ai cũng có thể tự nhận mình là con của một pháp trong ba pháp: nhơn ái, thanh thiện, giác chơn được hết. Và tự người ta tôn kẻ đó rằng xứng đáng là người, là Trời, là Phật, rồi tự họ xưng con lấy, chớ không có ông nào mà dám tự xưng: ta là người, ta là Trời, ta là Phật, tự đắc, tự tôn, xấc lối ấy cả, cũng không ai dám gọi kẻ khác, là con mình hết. Mặc dầu kẻ đó đã giác chơn, hay thanh thiện nhơn ái, đã thấy thân, trí, tâm mình giống như sự rộng lớn từ bi của võ trụ, lành sáng như võ trụ, dung chứa thương yêu như võ trụ đi nữa, đó chẳng qua là sự so sánh trừu tượng trong trí giác mà thôi, chớ tự xưng là sái quấy. Sự thật là như vậy, nhưng cũng có ít người chưa hiểu, tin tưởng như là trong không gian võ trụ, có cái điểm tinh hoa, hiệp lại hóa ra làm một như một người, có đủ linh giác và thần, rồi từ đó, mới tự biến hóa cho sanh ra tất cả. Vị ấy là chúa tể càn khôn độc đoán, không ai thành được như vị ấy; mà sự thật là không ai hiểu rằng vị ấy là triết lý danh từ, là chơn lý huyền diệu của ba cái pháp: linh, giác và thần, của tứ đại trong không gian chớ không có phải ai hết; như trong mỗi xác thân người đây cũng có đủ tứ đại, ba cái pháp của chơn lý huyền diệu ấy cả, nên ai muốn tự xưng người, Trời, Phật, chúa tể, chi cũng được, nhưng mà tự xưng, chẳng quý bằng để cho người khác tự họ tôn lập mình là tốt hơn.

Và nên thay cho câu nói: sợ ông Phật, sợ ông Trời, sợ ông Người, bằng câu nói: kính trọng cái Phật giác chơn, kính trọng cái Trời thanh thiện, và kính trọng cái người nhơn ái! Còn sợ thì nên phải sợ cái ác, sợ con vật, hay sợ cái tội lỗi, là đúng hơn hết. Vì ngoài tội lỗi ra, ta cũng như ai nấy, đâu có ông nào bảo ta phải sợ, sợ để làm chi đó? Cũng vì vậy cho nên vị vua Trời kia, không muốn cho người ta hiểu lầm mê tín nơi ông, để chỉ biết sợ ông, mà không sợ tội lỗi, nên ông mới hóa ra đạo sĩ, mà dạy đạo cho nhà vua, và các chư Phật, thì cũng chẳng bao giờ kêu gọi ai là con mình. Phật hay nói pháp, giác ngộ cho người hiểu rõ nhơn duyên, mỗi ai ai cũng được thành Trời Phật như Ngài được hết, chớ không có sự gì ngăn cấm, ích kỷ, độc tài. Vả lại nơi mỗi chúng sanh đều có cái biết, nó sẽ biết tất cả; có cái linh, nó sẽ linh thông tất cả, có cái sống, nó sẽ sống với tất cả, đâu có cách gì ngăn cản nó được. Nào ai không phải là chúa tể võ trụ ngày mai, nếu họ biết ghê sợ tội lỗi và biết hổ thẹn tội lỗi khi tội lỗi đã hết.

Vậy thì công lý là không có đàn áp ai hết, và bởi không có đàn áp ai hết, nên mới gọi là công lý, đã là công lý thì đâu có chúa tể, chúa tể chỉ có tạm cho trẻ nhỏ, người lớn lớp dưới số riêng, chớ đâu có dùng chung cho tất cả hay như những ông già đặng. Vì trên cái già là kế chết, chớ đâu có cái lớp quá hơn già. Ví như ta kêu người bằng con, thì há lại chẳng có kẻ khác kêu ta bằng con lại hay sao?

Còn nói về cái pháp mục đích là chúa tể, thì chúng sanh từ trong cái vô minh sanh ra, để phải tiến lần lên, chịu sanh tử khổ mãi; cho đến giác ngộ chơn như, diệt lần sanh, tử, khổ, vô minh, là được lậu tận.

Vậy thì chơn như là chúa tể mục đích của lớp ông già trọn vẹn, chớ cái trí thanh thiện mục đích chúa tể của người lớn, không dùng cho ông già được, vì chẳng phải là pháp tôn thờ… chỗ đến của các ông già.

Bởi pháp trí thanh thiện là mới biết ghê sợ tội lỗi chớ chưa qua khỏi tội lỗi lâu ngày, nên chẳng tiêu trừ sanh tử khổ đặng, chưa phải hoàn toàn là pháp cứu cánh của ông già. Cũng như nhơn ái của nhơn loại trẻ nhỏ, thì không phải là mục đích của chư Thiên người lớn nữa.

Vậy nên người thiện, mà thiếu trí huệ toàn giác cặp mắt, thì cũng chưa ích lợi sống đặng, vì cái khổ chưa phải hết.

Tổ sư MINH ĐĂNG QUANGPatriarch MINH DANG QUANG

*&*


__________&*&__________

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2025

3.600 câu thơ lục-bát; 3,600 six-eight verses


Năm Điều Không!; Five No's!
Lotus and chakras
 Hoa sen và luân xa 
Một không hại tánh mạng và sát sanh,; 
One does not harm life and kill,; Hai không trộm cắp, làm lành ăn chay!Two do not steal, do good and fast!; Ba là không: gian dâm và tà vạy,The third is no: fornication and debauchery,; Bốn không nói dối, đổi thay ân tình.Four do not lie, change love.; Điều năm không uống rượu say: bất bình,Article five do not drink drunk: grievances,; Năm điều giới-cấm: gia đình yên vui!; Five precepts-forbidden: happy family!
Cư sĩ: TÂM ĐĂNG; Layman: TAM DANG 

*&*
Tham khảo Refer: Phần mềm Dịch tiếng Anh & Từ điển; English Translation Software & Dictionary: https://vikitranslator.com/ ;  Oxford  Learner’s Dictionary
*&*
LINK: Google Search: Booking.com
*&*
___ Thực ra, Bà Chúa Chổm tôi, mới vừa nhập định, ngủ ngon. Thì xét thấy Tiên Sinh: Lê Đức Nhân (Huyến-Biệt danh: Đính Demo), Phật-Pháp danh là: Tâm Đăng!; In fact, my Lady of the Chomp, who had just entered samadhi, slept well. Then consider that Tien Sinh: Le Duc Nhan (Huyen-Nickname:  Dinh Demo), Buddha-Dharma's name is: Tam Dang!; Quả nhiên, mô tả về cảnh vật, chưa có chi tiết về chiếc kim thoa, là vắt trên cây đào, ở miền bắc gọi là vậy!; Indeed, the description of the scene, without the details of the needle, is on a peach tree, so it is called in the north!; Miền nam, người ta gọi là cây điều, trồng lấy hạt điều, ran cháy vàng: ăn nó thơm, chứa nhiều tinh dầu.; In the South, people call it the cashew tree, growing cashews, burning them yellow: eating it is fragrant, containing a lot of essential oils.; Nhân đây, có lời muốn hỏi.; By the way, I have a question to ask.; Thì nhớ lại, Kim Trọng vào mùa xuân của năm sau, mới thuê căn nhà trọ, gần nhà của Thúy Kiều.; Then recall, Kim Trong in the spring of next year, just rented a motel, near Thuy Kieu's house.; Thật vậy, bài thơ mà nàng Kiều năm xưa, viết trên bức tranh mà đã vẽ nàng Kiều của chàng Kim Trọng, là như sau:; Indeed, the poem that Kieu in the past, written on the picture that painted Kim Trong's Kieu, is as follows:
Tri nhân tri diện chẳng tri tâm
Kim Trọng thăm tệ xá quang lâm
Lạ bút phong lưu khá tinh hoa
Họa người vẽ cảnh, thiếu: giao thoa ?
Sau khi, mà Kim Trọng, cùng "tiểu-đồng"(người hầu nhỏ) đã ra về.; After, Kim Trong, and "tieu-dong" (small servant)  left.; Vương Quan, em trai, học một lớp với Kim Trọng, hỏi nàng Kiều, nàng đã nói, bài thơ ấy, là như sau:; Vuong Quan, the younger brother, who was in a class with Kim Trong, asked Miss Kieu, and she said, the poem is as follows:
Tri nhân tri diện tri tâm,
Chẳng thăm Kim Trọng, quang lâm tệ xá !
Lưu phong vẽ lạ tinh hoa,
Vẽ cảnh họa người, giao thoa bút thiếu ?
Ý là em chớ đi lại, với Kim Trọng...nghe nói vậy, Vương Quan hỏi chị kề là Thúy Vân.; I mean, don't go, with Kim Trong...hearing that, Vuong Quan asked his step-sister Thuy Van.; Thúy Vân mới nói nhỏ, rằng ý chị Kiều muốn nói: "Họa-bì, họa-bóng, họa hình: khó mà họa cốt (xương)"?; Thuy Van just said softly, that Kieu meant to say: "Painting-skin, painting-shadow, painting: it is difficult to draw bones (bones)"?; Em mầy mà "lộn xộn" nói gì với Kim Trọng là bị "ăn đòn, à nha"!; If you are "messy" to say to Kim Trong, he is "hit, ah"!"messed up" = quậy!
____(Một khổ thơ: 2 câu bảy & lục-bát là 28 chữ biến thành thơ lục bát cũng dùng 28 chữ ấy.; A stanza: 2 verses seven & six-eight are 28 words that turn into a six-eight poem using the same 28 words.; Nhưng vị trí chữ là khác nhau! Tuyệt bút của thơ ca...; But the letter position is different! The best pen of poetry...); Ok...thật vậy, hay lắm!; Ok...really, great!; Nhưng, Bà Chúa Chổm, không biết rằng: cụ Nguyễn Du, có lời thơ, đã mô tả, tâm trạng của Thúy Vân, đã lén gặp chàng Kim Trọng, và cái quạt "bị rách"...; But, Mrs. Chua Chom, did not know that: Nguyen Du, whose poetry, described Thuy Van's mood, had secretly met Kim Trong, and the fan was "torn"...; 
___ Cụ Tố Như, mãi bâng khuâng, chỗ nầy, mà đưa vào truyện, hậu thế về sau, họ nói: yêu đương, hẹn hò lộn xộn quá!; Mr. To Nhu, forever flustered, this place, but put into the story, later posterity, they said: love, dating is so messy!; Cụ đã thôi, bỏ bớt lời thơ ấy ra...có biết là gì không?; The old man stopped, removed that poem... do you know what it is?; Nói nghe chơi!; Talk and play!; 
___ Tạm gợi ý là..."Tình chị duyên em lắm hững hờ. Bây giờ mới biết ai sầu thơ...Ba bảy năm sau, thời quá luống"...; Temporarily suggesting that "My sister's love is very indifferent. Now I know who is sad... Three or seven years later, the time is too lazy"...; Vậy, còn một câu nữa là câu thơ gì?; So, what is another verse? );( Ok! Nghe được lắm ! Nghe nè!: "Sóng tình cuồn cuộn, lắm phong sương"; Very good to hear! Listen!: "Rounding waves of love, a lot of wind and fog"; Và, do vậy, mới sắp xếp nó lại thành thể thơ, câu sáu và tám, như sau:; And, thus, rearranged it into verse form, verses six and eight, as follows:
Hững hờ chi lắm hóa công,
Ba bảy năm sau, ai trông kim, cổ!
Một luống, hai tình, ơi khổ,
Sầu thơ quạt rách, ái mộ: người xưa.
Chúa Chổm nợ nhiều mây mưa,
Một nắng sương phai, vẫn thừa: chẳng thiếu! 
Indifferent to the public, Three seven years later, who looks now and past! One bed, two loves, miserable, Sorrowful, fan torn, admired: The ancients. God is in cloudy debt, A sunny fog, still redundant: No shortage! 
*&*
eight; Tiếng Anh cổ eahta,? Ihta, từ Proto Germanic * akhto (u) (phong tặng Old Norse atta, Ger. Acht, Gothic ahtau), từ PIE * okto (phong tặng tiếng Hy Lạp okto, tiếng Latinh octo, O.Ir. ocht-n, Bret . eiz, Skt. astau, Avestan ashta). Klein gọi nó là "một dạng kép cũ, ban đầu có nghĩa là 'hai lần bốn'." "Có nghĩa là" thủy thủ đoàn tám người của một chiếc thuyền chèo "có từ năm 1847. Bộ tám người Tây Ban Nha (1699) được gọi như vậy vì nó có giá trị bằng tám thực. Để đứng sau tám quả bóng "gặp rắc rối" (1932) là một phép ẩn dụ từ hồ bơi bắn súng. Mười tám là tiếng Anh cổ eahtatene; tám mươi là hundeahtatig trong tiếng Anh cổ, từ hund- "mười." Tám mươi sáu, tiếng lóng có nghĩa là "loại bỏ" (1936), có nguồn gốc là tiếng lóng của quầy ăn trưa, một từ của người đầu bếp có nghĩa là "không có" khi được yêu cầu một thứ gì đó không có sẵn, có lẽ là tiếng lóng có vần với nix.
Tám; Eight /'eit/adj. Adjective: being one more than seven; Noun: the cardinal number that is the sum of seven and one.; Tính từ: là một hơn bảy; Danh từ: số chính là tổng của bảy và một.
Synonyms: 8 - viii - eighter - eighter from decatur - octad
Từ đồng nghĩa: 8 - viii - Eighter - Eighter từ decatur - octad
tám; eight/'eit/--adj. 1. being one more than seven.; 1. là một hơn bảy.
& noun (singular: eight; plural: eights): ; --danh từ (số ít: tám; số nhiều: tám):
2. 8: the cardinal number that is the sum of seven and one. 
2. 8: con số chính là tổng của bảy và một.
3. ashcan school: a group of United States painters founded in 1907 and noted for their realistic depictions of sordid aspects of city life. 
3. Trường học ashcan: một nhóm các họa sĩ Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1907 và được chú ý nhờ những bức vẽ chân thực về những khía cạnh tồi tệ của cuộc sống thành phố.
4. eight-spot: one of four playing cards in a deck with eight pips on the face.
4. tám vị trí: một trong bốn thẻ chơi trong bộ bài với tám pips trên mặt.
6.- index /'indeks/ n. &v. MỤC LỤC :
Salute! (chào cung kính)...xá chào (tập tục); --verb (verb: salute; 3rd person present: salutes; past tense: saluted; past participle: saluted; gerund or present participle: saluting); --verb (động từ: chào; hiện tại ngôi thứ 3: chào; thì quá khứ: chào; quá khứ phân từ: chào; phân từ hoặc hiện tại phân từ: chào); 1. to greet in a friendly way. "I meet this men every day on my way to work and he salutes me."; để chào hỏi một cách thân thiện. "Tôi gặp những người đàn ông này hàng ngày trên đường đi làm và anh ta chào tôi."; 2. to express commendation of. "I salute your courage!."; để bày tỏ sự khen ngợi. "Tôi xin chào lòng dũng cảm của bạn !."
salute /sə'lu:t /v.&n. xá chào cung kính
Verb : to propose a toast to; Động từ: đề xuất nâng ly chúc mừng
Noun: an act of honor or courteous recognition; Danh từ: một hành động tôn vinh hoặc sự công nhận lịch sự
Synonyms: drink - pledge - toast - wassail - present
Từ đồng nghĩa: đồ uống - cam kết - bánh mì nướng - cánh buồm - quà tặng
@<...>@
____ Kính chúc Ái Vi Tôn Nữ - Chicago - một ngày mới: yên bình!- DinhDemo.
____ Wishing Ai Vi Ton Nu - Chicago - a new day: peace!- DinhDemo.
____OK! Tóm lại: đề nghị Đính-Demo...cho vài câu thơ...đêm động-phòng; In short: suggest Attaching-Demo...for a few verses...during-room night; (Phòng dành riêng cô dâu & chú rể; Room reserved for the bride & groom;) của nàng Thúy Kiều và Mã Giám Sinh?; of Thuy Kieu and Ma Giam Sinh?; OKAY here you are
Thơ: Đêm Thành Hôn!; Poetry: Marriage Night!
Bao mùa lá rụng sầu đông,
Seasons of leaves fall, winter melancholy,
Nghĩa tình ân ái, thơm nồng đêm say.
Meaning of love, fragrant night, drunk.
 Bàn thờ lạy-tạ liền tay,
The altar praying thanksgiving in the palm of your hand,
Ba hương nhập lại, hỏi ngày nào tra?
Three incense re-entered, ask what date?
Sóng tình vang vọng âm ba,
Waves of love echoing the triple sound,
Ngày chúng mình đã, một nhà ấm êm.
The day we had was a warm and cozy home.
Uyên ương (đôi chim vịt), chấp cánh nỗi niềm,
Lovebirds (a pair of ducks and birds), clinging to feelings,
Nụ hôn lướt nhẹ, môi mềm: chén chung.
A soft kiss, soft lips: shared cup.
Một đêm gia đình liễu-tùng,
One night willow-pine family
Một lần nhẹ gót, ngại ngùng môi son.
Once lightly heeled, shy lipstick.
Một ngày đạo lý vuông tròn,
A square and round moral day,
Chú rể hiếu thảo, hiền ngoan: dâu hiền!
Filial and obedient groom: gentle bride!
Mộng tình loan-phụng thần tiên,
Dreaming of love and worshiping the gods,
Một đêm ân ái, ưu phiền: còn đâu?
A night of love, sorrow: where else?
Biết rằng là phận con dâu,
Knowing that as a daughter-in-law,
Hiếu-tình cho trọn, là câu răn mình.
Love to the full is my commandment.
Một đêm Kiều nữ anh minh,
One night Kieu lady heroic,
Một ngôi ân sủng, chúng mình: thành hôn!
One throne of grace, we are married!
Quy nhơn, ngày: 5/10/2019-DinhDemo.
Một ngôi ân sủng, chúng mình: thành hôn! Nguôi lòng bão tố dập dồn,; Đêm nay ân ái, ngập hồn nhớ thương. Nhớ nhau hai chữ đoạn trường,; Không ân cũng ái, con đường lâm ly...Mã rằng: sao mãi sầu bi? Phút giây ân nghĩa, so bì nào hơn.; Hay là nàng giận nàng hờn, Mắt sâu mỏi mắt, gió vờn lệ chan.; Biết rằng: ta lỡ mua nàng; Không duyên chẳng nợ, buộc ràng làm chi? Đưa tay nước mắt huyền vi, Khóc cho nhẹ bớt, sân si ba đào. Mã ta nòi giống anh hào...Giám Sinh tên gọi, duyên trao cùng nàng! ):( LOL. = Laugh of laugh...no smile..ok good very good!; Ái Vân tôi nghĩ: một nhạc sĩ nghèo mạt hạng là "rớt mồng tơi"...như sư huynh Đính Demo...bỏ ra tới 400 lượng vàng 9999 , mà mua Kiều và tán tỉnh-Flirt "ngon ơ" gặp tui cũng thích OK..chịu ! Thúc Sinh, mua lại bao nhiêu ?
I.- Nhật ký HẠ HỒNG & Thành hôn:
I.- Diary of HA HONG & Marriage:
Note; Chú thích: Tình Yêu?; Love?; Yêu là chạy trốn cô đơn,; Love is running away from loneliness,; Muốn được yêu: chợt dỗi hờn, nũng nịu!; Want to be loved: suddenly sulk, cuddle!; Nâng tình, buông thả gợi khêu,; Raise love, let go, provocative; Tình là dục vọng, như triều sóng dâng.; Love is lust, like a tidal wave.; Lênh đênh trong cõi hồng trần,; Floating in the mundane world,; Đố ai tránh khỏi, chịu phần tang thương!; Guess who avoids, suffers the mourning part!; Tình là ân nghĩa: vấn-vương,; Love is grace: question-king,; Yêu là đạo lý, cương thường vượt qua.; Love is a moral, hard work often overcomes.; Tình thương bác ái Phật đà,; Buddha's love and compassion,; Mười hai bến nước, siêu qua thoát đời!; Twelve wharfs, super past life escape!; Tình đời bể khổ chơi vơi,; Love life is miserable, playing with it,; Nhân duyên Ái-nghiệp, tuyệt vời: Tình Yêu ?; Predestined Love-karma, great: Love ?

Tựa sách: Chánh tín Cư sĩ Tại gia
Title: Righteous Faithful Laity at Home

@;<max-height:  7700px>;@
1.-Siêu nhiên hiển-hóa: siêu-phàm,
1.-Supernatural manifesting: super-normal,
2.-Hành động cao cả, việc làm thánh nhân.
2.-A noble action, a saintly work.
3.-Luật tự nhiên hạt nhị phân, 
3.-The natural law of binary particles,
4.-Lướt thiên niên kỷ, góp phần vũ trụ.
4.-Surf the millennium, contribute to the universe.
5.-Khai mở linh thông gom tụ,
5.-Opening spiritual intelligence gathering,
6.-Ánh sáng vật lý, "thiên-thu" (ngàn năm) vô tận.
6.-Physical light, "thousand-year" (thousand years) endless.
7.-Cõi đời kham nhẫn: phong vân (gió-mây),
7.-The world of patience: wind and clouds (wind-clouds),
8.-Chánh niệm: nhập-định, tạo phần tánh linh.
8.-Mindfulness: enter-concentration, create the spirit part.
9.-Vạn vật, các pháp, chúng sinh,
9.-All things, all dharmas, living beings,
10.-Thọ pháp giải thoát, độ mình: độ-tha.
10.-Life method of liberation, self-relief: self-forgiveness.
*&*
11.-Nhân sanh khắp cõi gần xa,
12.-Tu nhân tích đức, siêu qua hội nầy.
13.-Chơn linh câu hội sum vầy,
14.-Giao hòa nhập định, dựng xây chính mình.
15.-Lục thời thâm nhập điển kinh,
16.-Tham thiền luận đạo, rõ mình rõ ta.
17.-Lửa lòng bén ngọn cũng qua,
18.-Theo duyên tiến hóa, cũng xa hội nầy !
19.-Âm dương hóa hợp sum vầy,
20.-Nhân duyên cảnh ngộ, dựng cây đuốc nhà.
21.-Hội thánh chúng hội chơn ngã,
22.-THÍCH CA CHÁNH PHÁP, ta-bà thiền cơ.
23.-Tìm lời ghép chữ làm thơ,
24.-Lời hay ý thiện, rộng mở thênh thang.
25.-Yêu hoa chớ để hoa tàn, 
26.-Ghét người hung bạo, ghét đàng mây mưa !
27.-Mưa hòa gió thuận thì ưa,
28.-Gió lồng bão tố, mấy vừa lòng ta ?
29.-Ý đời rộng khắp bao la,
30.-Nhân tình thế thái, ý hòa bình an !
31.-Yêu hoa chẳng để hoa tàn,
32.-Nghệ thuật yêu hoa, luận bàn thơm thảo !
33.-"Kim ngôn ngọc ngữ" đổi trao,
34.-Tránh điều trần tục, ba đào ví von :
35.-“Trăm năm tình nghĩa vuông tròn, 
36.-Vài ba năm nữa, có con anh bồng.
37.-Một đời duyên phận má hồng,
38.-Mười hai bến nước, cội trồng phước duyên ?"
39.-"Bến trong bến đục phận thuyền,
40.-Tình là duyên nợ, lời nguyền thủy chung !
41.-Tâm đầu ý hiệp ung dung,
42.-Tâm hồn cao thượng, phận tùng: THÂN THƯƠNG !"
43.-Tình là ân nghĩa vấn vương,
44.-Yêu là đạo lý, cương thường vượt qua.
45.-Không theo chí nguyện xuất gia,
46.-Tại gia hạnh nguyện, Yo-ga tu hành.
47.-Thời gian thắm thoát trôi nhanh,
48.-Trăng treo đầu ngõ, trên cành thu đông.
49.-Ấp yêu nồng ấm quạt nồng,
50.-Đông qua xuân đến, cành hồng ra hoa.
51.-Thiền định rèn luyện ngự tọa,
52.-Sen thiêng hiển hóa, ngời tỏa thênh thang:
53.-"Hoa xưa vừa nở vội tàn,
54.-Tấm lòng chung thủy, tâm cang muộn phiền.
55.-Hoa nay duyên phận thuyền quyên,
56.-Tình trường ái nghiệp, truân chuyên má hồng.
57.-Buồn trông một khoảng hư không,
58.-Mây trôi biền biệt, mây bồng non cao. 
59.-Tấm lòng ẩn hiện nơi nao,
60.-Người xa biền biệt, người trao ân tình.
61.-Tình yêu như đóa hồng xinh,
62.-Như màu tím biếc, lung linh bên đồi.
63.-Hoa sim chế ngự lòng tôi,
64.-Hoa sen thầm lặng, hoa ngồi thời gian.
65.-Hoa ơi ! chớ nở vội tàn,
66.-Hoa trôi bàng bạc, bẽ bàng duyên xa.
67.-Hoa khôi ái ngự trong ta,
68.-Trái tim thầm lặng, giao hòa thời gian !
69.-Hoa là biểu tượng dung nhan,
70.-Chân tình năm tháng, nghiêm trang tôn thờ.
71.-Tâm hồn cao thượng mộng mơ,
72.-Đời người duyên phận, bến bờ tình duyên ?
73.-Mười hai bến nước phận thuyền,
74.-Ví như thục nữước nguyền yêu trăng:
75.-"Hoa phượng rơi thời áo trắng, 
76.-Phượng trắng nhớ trông, vắng biệt bóng hồng.
77.-Khai trường dóng trống thu không,
78.-Còn vang âm hưởng, suốt trong canh trường.
79.-Lời lỡ hẹn ơi !... tâm tưởng,
80.-Còn thẹn ngây ngây, chiêm ngưỡng má hồng.
81.-Tiềm thức lạc quan mơ mộng,
82.-Dấn bước chông gai, lồng lộng tương lai.
83.-Tìm tổ ấm chim di mãi,
84.-Đưa tay kết nối, cho dài đường đi.
85.-Trời mười phương, tuổi xuân thì,
86.-Tìm về lối mới, chim di phương nào ?
87.-Ơi  hoài niệm ! Đăng Tâm Thảo,
88.-Tâm tình dâng tặng, dạt dào tứ phương.
89.-Ngày rộn rã bạn nhớ trường,
90.-Thương yêu nhớ lắm, hoa phượng rơi rơi !
91.-Mặt trời đơn độc chiếu ngời,
92.-Hè dã ngoại, thiếu vắng ơi tiếng ve.
93.-Nhớ nhau hò hẹn mùa hè,
94.-Đêm trăng thiếu vắng, lặng nghe uất nghẹn.
95.-Chờ suốt mùa quên lời hẹn,
96.-Yêu đơn phương, chưa vẹn: HOA PHƯỢNG RƠI !"
97.-BẤT giáo thành đa buông lơi, 
98.-NGÔN tự chi ngôn, hữu lời hữu dụng.
99.-CHI hựu hà lưu vô trung,
100.-GIÁO hữu chi sinh, hào hùng xung trận.
101.-QUANG sáng vô tận sông ngân,
102.-TRUNG ngôn chi giáo: huống tận chi mơ !
103.-Tình mơ mộng đẹp nên thơ,
104.-Đam mê kh dại, bơ vơ tâm hồn.
105.-Tình mơ hóa dại nên khôn,
106.-Theo ta nàng có, về hương thôn làm ?
107.-Cảm thương duyên phận nhẫn kham,
108.-Sống theo cảnh ngộ, tay làm hàm nhai.
109.-Tình thơm hóa thảo hương lài,
110.-Hương thơm tâm sự, cho dài đường đi.
111.-Biết thương ức chế tình si,
112.-Minh tâm sáng suốt, duyên thì đưa duyên.
113.-Xuân qua hạ đến thề nguyền,
114.-Thu cam phận chịu, đông thuyền rước đưa ?
115.-Chàng về gia quyến rằng thưa,
116.-Gia đình thăm viếng, cho vừa hai bên.
117.-Cán cân công lý chênh vênh,
118.-Tình chung gia sự, gập gềnh đường đi.
119.-Chân đưa vào hạ duyên thì,
120.-Tình yêu dâng hiến, mê si trăng vàng ?
121.-Tơ buồn con nhện giăng ngang, 
122.-Sầu lo vương vướng, bàng hoàng rõ nghe !
123.-Thấu lời cao cả tròn xoe,
124.-Lời nghe thê thảm, con ve kêu sầu.
125.-Sợi buồn con nhện sầu đâu,
126.-Giăng tơ trong vắt, hạt châu lệ ngần.
127.-Trăng trong hồn nhẹ lâng lâng,
128.-Trăng lu mờ tỏ, hồng trần thiên nhiên.
129.-Thiên trời địa đất hồn thiêng,
130.-Nhân sinh tự cổ, ưu phiền mắt trông !
131.-Nhật ký giao lưu HẠ HỒNG

132.-Mười tám tháng năm, nàng trồng “cây si” :
133.-“Trăng gởi niềm tin duyên thì,
134.-Tình chưa hứa hẹn, duyên chi kiếp nào.
135.-Suối nguồn còn vẹn chưa trao,
136.-Trăng nào hò hẹn, ngọt ngào môi hôn !
137.-Ơi kỷ niệm, lòng bồn chồn,
138.-Qua đông trọn gởi, giấc mộng tàn thu.
139.-Cuộn mình chiếu chăn mơ ngủ,
140.-Trái tim cô đơn, ngục tù nhân ảnh.
141.-Thầm lặng nụ hôn thiên thanh,
142.-Mơ hoang chăn chiếu, như mành trúc xinh.
143.-Gởi tặng anh chiếc môi tình,
144.-Thương người nhớ bóng, như hình: NỤ HÔN.”
145.-“Giấy pha màu trắng vô hồn,
146.-Khỏa thân anh vẽ, dại khôn tặng người.
147.-Môi cười như đóa hoa tươi,
148.-Dáng nghiêng cành liễu, ấp người nghiêng chao.
149.-Tay ôm hai gối ngọt ngào,
150.-Vòng tay hờ hững, dạt dào cúi trông.
151.-Mắt nghiêm vẽ tặng má hồng,
152.-Hoa khôi chinh phục, cõi lòng đam mê.
153.-Nét son nàng ngự sơn khê,
154.-Qua màu tím biếc, mắt mê ru hồn.
155.-Giật mình giá xịch ôn tồn,
156.-Mắt mở mắt nhắm, ngã chồng: NỤ HÔN.”
157.-Chìm sâu giấc ngủ mê hồn,
158.-Giường đơn gối chiếc, gió hôn nụ tình !
159.-Chia tay nàng vẫy tay xinh,
160.-Đêm qua chưa vẽ, bóng hình còn lưu:
161.-"Nguyên ngồi hồi tưởng vô ưu,
162.-Giả từ ảo ảnh, vẽ trừu tượng chi ?
163.-Vẽ người nét bút xuân thì,
164.-Khắc sâu tâm tưởng, duyên đi mấy đò.
165.-Đưa tay đo ngắm dễ đo,
166.-Đố ai lấy thước, mà so lòng người.
167.-Rạng ngời như đóa hoa tươi,
168.-Ẩn trong tình nụ, hoa cười thêm duyên.
169.-Một sao một gởi Uyên Nguyên,
170.-Hai sao hai gởi, Hải Uyên trao tình.
171.-Giao cảm Nhật Ký xinh xinh,
172.-Ngược chiều hò hẹn, tâm tình hiến dâng !
173.-Bước chân đếm bước bâng khuâng,
174.-Còn ghi lưu lại, hồng trần duyên đưa.
175.-Bệnh trời sáng nắng chiều mưa,
176.-Ngày vui tháng hạ, lần lữa gặp nhau...
177.-Anh buồn thân phận đến sau,
178.-Còn mang âm hưởng, tình đau chưa lành !
179.-Rưng rưng ngấn lệ yến oanh,
180.-Em mang tâm sự, nguyện thành: LỨA ĐÔI."
181.-Lặng nghe tiếng hát bồi hồi,
182.-Hồn thinh thinh lặng, đèn ngồi chong chênh:
183.-"Thư phòng bốn vách buồn tênh,

184.-Xót xa thân phận, chênh vênh chữ tình.
185.-Trăng lên trên ngọn núi xinh,
186.-Sau mây e ấp, cười tình cùng ai ?
187.-Đêm nao giấc ngủ thật dài,
188.-Đêm nay trăn trở, thương hoài ánh trăng.
189.-Trăng giờ thao thức bâng khuâng,
190.-Sương khuya giá lạnh, trăng kìa sau mây !
191.-Gió lùa hoang vắng nơi nầy,
192.-Gió mang tâm sự, sum vầy chung đôi ?
193.-Trăng khuya thổn thức bồi hồi,
194.-Lướt nhìn nhật ký: Uyên ngồi nhớ mong !
195.-Ai hoài tha thiết ngưỡng trông,
196.-Trăng khuya lành lạnh, chạnh lòng: CÔ ĐƠN."
197.-Trăng thanh gió mát mây vờn,
198.-Gió lùa mây đuổi, trăng hờn dỗi mây.
199.-Trà thơm dạ thảo thơm lây,
200.-Đêm cùng nhau hát, ngây ngây cung đàn.
201.-Nguyệt cầm tay thẩm cung sang,
202.-Hòa vang gam "sến", hạ đàng mưa ngâu:
203.-"Sợ người ru ngủ không sâu,
204.-Tiếc chi tiếng dế, đêm thâu thức hoài !"
205.-Mây buồn lơ lững nổi trôi,
206.-Ven sông Trăng rụng, hoa khôi phận buồn.
207.-Mưa hoa thấm nụ sầu tuông,
208.-Khóc thầm gội rửa: trăm nguồn sông thương.
209.-Sóng lòng trào dội vấn vương,
210.-Còn trong uẩn khúc, yêu đương thệ nguyền.
211.-Trăng tình mây lướt trên thuyền,
212.-Xa xa biển lặng, sóng huyền du dương.
213.-Sóng ngầm mãi vỗ bờ thương,
214.-Trên bờ cát trắng, tình nương hương nồng.
215.-Thoảng qua nhật ký HẠ HỒNG,
216.-Xuân qua hè đến, sang đông lạnh lùng.
217.-Khởi đầu muôn sự thủy chung,
218.-Cuối đường tình ái, Trăng cùng Mây chăng ?
219.-Mây ngơ lãng đãng cười rằng:
220.-Hoa xuân tình phụ, bâng khuâng: TRĂNG CƯỜI.
221.-Mây còn trĩu nặng hổ ngươi,
222.-Mây pha màu tím, mồng tươi mực huyền.
223.-Vết loang loáng đổ dấu khuyên,
224.-Vết tròn pha trắng, còn nguyên giấy hồng.
225.-Một trang màu thắm duyên nồng,
226.-Hai trang chừa trắng, vẽ lồng cho Uyên:
227.-"Nét đưa nét đẩy dấu khuyên,
228.-Vòng tròn tâm sự, vẽ thuyền đắm say.
229.-Vẽ mây liền núi Trăng ngày,
230.-Ánh dương vành khuyết, vươn tay cây tầm.
231.-Một hòn đá nhỏ ngụ ngầm,
232.-Không gian trầm ấm, uyên thâm dịu dàng.
233.-Cà phê tháng hạ âm vang,
234.-Rãi từng cung điệu, mơ màng nao nao:
235.-"Hòn đá cuội ngó trăng sao,
236.-Giựt mình tỉnh thức, đổ ào nắng trưa !"
237.-Dạt dào bóng dậu sao thưa,
238.-Xanh xanh cành lá, ngọn dừa đung đưa.
239.-Gót chân trượt gót bước vừa,
240.-Chân cao chân thấp, mây thưa lững lờ.
241.-Phụ đề ghi tặng nên thơ,
242.-Tô thêm mực tím, bất ngờ hay hay !
243.-Trái tim rộng mở tháng ngày,
244.-Hoa xuân cười nụ, điểm ngay: TRANG TÌNH.
245.-"Nguyễn gia đích thị là Đình,
246.-Bến xưa đò ngự, thuyền tình qua sông."
247.-Nàng về ghé chợ thêm đông,
248.-Phương Phi: Khách Thử, mây hồng ấp yêu.
249.-Chùa Ông Núi ngự mỹ miều,
250.-Suối Cồn nước chảy, riu rêu đá gành.
251.-Chim khôn lựa nhánh chuyền cành,
252.-Nhốt trong lồng dậu, yến oanh rõ rành ?
253.-Trời cao mở rộng thiên thanh,
254.-Dạt dào lòng đất, mẹ lành mừng vui !
255.-Mẹ mừng "dạ" mở ngậm ngùi,
256.-Nhìn tranh con vẽ, tuổi hồng dễ thương.
257.-Khung to leo lửng trên tường,
258.-Mẹ cười hoan hỷ, như gương hài lòng:
259.-"Chuyện đời bến đục bến trong,
260.-Tình là duyên nợ, trọn vòng nhân sinh !
261.-Hôm nay mẹ giảng như kinh,
262.-Một dòng tâm sự, hữu minh mà nhờ...
263.-Trẻ người non dạ mộng mơ,
264.-Dòng sâu chưa cạn, bến bờ là đâu ?
265.-Thương tằm kéo thả ngọn dâu,
266.-Nhịp cầu ô thước, sông sâu thuyền tình.
267.-Mắt nhìn mới rõ đinh ninh,
268.-Đêm sâu lửa ngọn, rõ mình nên duyên.
269.-Ví rằng: con gái phận thuyền,
270.-Vững chèo tay lái, phải khuyên nhau cùng.
271.-Chuyện tình hai chữ thủy chung,
272.-Xe duyên nguyệt lão, não nùng tình thương.
273.-Bàng hoàng nhớ cảnh đoạn trường,
274.-Sống trong ảo mộng, sầu vương vướng sầu.
275.-Dòng đời thuyền hướng về đâu,
276.-Mười hai bến nước, nông sâu khó lường?
277.-Ai hoài hình bóng người thương,
278.-Gởi niềm nhung nhớ, tình trường: TƯƠNG TƯ."
279.-Thương nhau chẳng luận nên hư,
280.-Ngẫm trong trái bưởi, riêng tư lo tròn !
281.-Dâu hiền rể thảo là ngoan,
282.-Con về thưa lại, vuông tròn hợp duyên.
283.-Thi thơ rằng gọi : Ương Uyên,
284.-Chắp liền đôi cánh, nên duyên vợ chồng.
285.-Mẹ xưa cũng phận má hồng,
286.-"Tam Tùng Tứ Đức" mà trồng cội xưa.
287.-Xuôi dòng thuyền ngược phố trưa,
288.-Vòng tay ân ái, như vừa thơm hương.
289.-Thuyền xô ngọn sóng phố phường,
290.-Quê nhà gặp gỡ, tình trường đổi thay ?
291.-Không gian rộng mở tháng ngày,
292.-Lật trang tình sử, ấp đầy nên thơ.
293.-Tình yêu duyên phận bất ngờ,
294.-Người đi kẻ ở, nghi ngờ bất an:
295.-“Hỡi cô tát nước bên đàng, 
296.-Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi !”
297.-Chàng thưa em gởi nghĩ suy,
298.-Cười trong nghịch cảnh: xuân thì nghĩa chi ?
299.-Thâm trầm câu hỏi ẩn ý,
300.-Tình xuân trước tuổi, già chi cội nguồn...
301.-Giấc mơ không đuổi rằng: buồn,
302.-Tình già hóa trẻ, mưa nguồn suối tuông !
303.-Còn mơ đeo đuổi tròn vuông,
304.-Còn tươi xuân mãi: vọng buồn cũng xuân.
305.-Gia sự gia phong giáo huấn,
306.-Một dòng họ tộc, chuyển luân hào hùng:
307.-“Chúc xuân hòa nhã trẻ trung,
308.-Mừng xuân khỏe mạnh, ung dung thanh nhàn.
309.-Phước nhà trường thọ bình an,
310.-Gia đình hạnh phúc, họ hàng bình yên.
311.-Sắc xuân tươi thắm tự nhiên,
312.-Chồi xuân lộc nở, khắp miền nhân gian,
313.-Chúc xuân sức sống dâng tràn,
314.-Mừng xuân thịnh vượng, an khang thái hòa.
315.-Nụ cười rạng rỡ như hoa,
316.-Xuân về an lạc, giao hòa: chúc xuân !
317.-Xuân đi xuân đến chuyển luân,
318.-Xuân về đoàn tụ, vui mừng: CHÚC XUÂN.”
319.-Vân, Vy thoáng hiện bâng khuâng,
320.-Mẹ đưa Nhật Ký, phân trần nơi nao: 
321.-"Gió đưa cây trúc lao xao,
322.-Mây đen trĩu nặng, hôm nào ghé chơi !
323.-Nầy tình ơi ! gió buông lơi,
324.-Trăng mờ xa khuất, một lời không hai:
325.-“Trăng còn soi tỏ gót hài,
326.-Trên hòn đá nhỏ, đêm dài thở than !”
327.-Mưa tuôn thầm lặng hai hàng,
328.-Sóng đôi đũa ngọc, đài trang người về:
329.-"Hòn đá nhỏ, ngắm sơn khê,
330.-Hoa khoe phong nhụy, cõi mê phong tình !"
331.-Mây tan trăng hé lung linh,
332.-Màn đêm huyền ảo, gập gềnh : TINH ANH ?"
333.-Thuyền tình sóng gió trôi gành,
334.-Tình xưa chưa vẹn, cũng đành chia phôi.
335.-Tình đầu tình cuối nổi trôi,
336.-Nhân duyên tình phụ, ai hoài lặng thinh:
337.-“Cây đa bóng nước sân đình, 
338.-Dấu chân lặng lẽ, chân tình năm nao !”
339.-Nầy tình yêu ! quá ngọt ngào,
340.-Đá rêu phong nhị, dâng trào mưa tuôn:
341.-“Đá còn nhỏ giọt tình buồn,
342.-Ly cà phê đắng, gió luồng mây đưa !”
343.-Nắng phơi trãi nắng giữa trưa,
344.-Sân đình trống vắng, vẫn chưa thấy người…
345.-Đá rêu phong chẳng hổ ngươi,
346.-Cột đình thẳng đứng, ngút trời hoang vu !
347.-Mái đổ hoa cười hé nụ,
348.-Tường xiêu ảm đạm, ngục tù: HOA KHÔI ?”
349.-Nhạt nhòa trong trắng pha phôi,
350.-Còn lưu tâm niệm, nét ngoài vẽ trong.
351.-Ẩn lòng tâm sự nhớ mong,
352.-Hoàn nguyên xuất hiện: "một vòng tinh anh."
353.-Nhớ người viễn xứ mong manh,
354.-Nhớ xưa đền đáp, duyên thành nhị phân.
355.-Đưa chân xuống chốn hồng trần,
356.-Đố ai tránh khỏi, chịu phần tang thương:
357.-"Hồn anh khuất núi chiến trường, 
358.-Thiên thu lận đận, vấn vương tơ lòng.
359.-Sống đời đành phận long đong,
360.-Hồn thiêng sông núi, nắng hong sau đồi !
361.-Hoa khôi ái ngự lòng tôi,
362.-Xin em dấn bước, nối tình duyên đi…
363.-Gió đi về biển tình si,
364.-Tình xưa băng giá, tình đi bốn mùa !
365.-Mùa đông đan áo thêu thùa,
366.-Sang xuân nồng ấm, gió lùa quạt khêu.
367.-Trước sau nồng ấp tình yêu,
368.-Ba năm tình phụ, ba chiều : THIÊN THU."
369.-Trái tim nhân ảnh ngục tù, 
370.-Trưa nồng nóng nực, gió ru giấc nồng.
371.-Lời ru một khoảng mênh mông,
372.-Quạt nồng yêu ấp, gió lồng một gang.
373.-Áo bay quạt cách đôi đàng,
374.-Quạt rời "quân tử", quạt tràn qua khe.
375.-Ba Tiêu tay hứng tay che,
376.-Nắng xuyên qua kẽ, gió hè quạt chung !
377.-Tiền nhân hậu bối não nùng,
378.-Họa thơ đối ý, trung dung : QUẠT XÒE !”
379.-Eo cong con mắt đỏ hoe,
380.-Thân tâm trong sạch, tròn xoe nụ cười !
381.-Vòi phun nước sạch thân tươi,
382.-Còn trong tình ý, nụ cười trắng trong !
383.-Hoa lòng đá cũng đơm bông,
384.-Độc hành lữ thứ, hư không nhạc chiều:
385.-"Tát yêu bồn tắm riu riu,
386.-Bồ công anh âm ấm, nhiều hương thơm.
387.-Hoa tím nổi trên khăn chờm,
388.-Dòng nước vắt, đỏ lờm đinh hương.
389.-Giọt còn nhỏ giọt tình thương,
390.-Tóc mơ vướng tóc, sợi thương sợi buồn.
391.-Nghìn thu chỉ một suối nguồn,
392.-Ngàn năm chảy mãi, nước tuông qua cầu.
393.-Vòng kiền rước kiệu đưa dâu,
394.-Qua lầu vọng nguyệt, sông sâu ngược đường.
395.-Mai về hiên dậu rằng thương,
396.-Hồn anh ghé lại, trong gương nhoẻn cười !
397.-Nhẹ người cất bước bỏ mười,
398.-Cốt hoa trinh nữ, chín tươi nâu sòng.
399.-Em giờ cất bước sang sông,
400.-Vu quy lạy tạ, theo chồng nên duyên !
401.-Ví như con gái phận thuyền,
402.-Con trai trong trắng, ước nguyền : TINH HOA."
403.-Thanh Vân nhị tẩu sáng lòa,
404.-Thanh Vi tam tẩu, "dạ xoa" vọng buồn.
405.-Xấu người đẹp nết như khuôn,
406.-Khuôn vàng thước ngọc, cội nguồn triết nhân.
407.-Lõa lồ một cõi phong vân,
408.-Các nhà hiền triết, bâng khuâng dùng lời.
409.-Vẽ mây vẽ núi tuyệt vời,
410.-Tuyết pha màu tuyết, sương thời pha sương.
411.-Đậm đà màu trắng lên hương,
412.-Màu sương lam nhạc, màu hường dễ thương.
413.-Mười năm tầm nghịch tư vương,
414.-Nhứt dương sanh kỷ, nghịch đường thiện tai !
415.-Dế kêu nạn đói họa lai,
416.-Nửa đêm thao thức, ai hoài lửa hong !
417.-Bấm tay cung mạng trọn vòng,
418.-Chu kỳ năm tháng: một vòng luân lưu.
419.-Sáu mươi năm chẵn thành tựu,
420.-Một vòng hoa giáp, dê cừu gặp nhau !
421.-Nhìn trông chợt nhớ hoa cau,
422.-Sơn màu trăng trắng, một tàu nghiêng nghiêng.
423.-Một tô mì miến ăn liền,
424.-Nước sôi ấm nóng, ưu phiền toát hơi.
425.-Thân an khỏe mạnh nghỉ ngơi,
426.-TÂM TÌNH DÂNG HIẾN ta thời đọc sau.
427.-Hoa cau loang trắng nhiệm mầu,
428.-Ngân hà một dãi, qua cầu ngự yên:
429.-"Tôn nghiêm giấc ngủ thần tiên, 
430.-Ngủ sâu như chết, ưu phiền còn không ?
431.-Giường êm nệm ấm lạnh nồng,
432.-Ba Tiêu quạt mát, khuê phòng nhạc ru:
433.-"Lời ru giấc ngủ thiên thu,     
434.-Ngủ sâu vời vợi, gió ru vọng về. 
435.-Lời ru ảo não si mê,
436.-Thâu hơi sâu đậm, phá mê hôn trầm !"
437.-Vận đều lồng phổi uyên thâm,
438.-Vô luân vô chuyển, ngụ ngầm lặng yên:
439.-“Êm đềm đưa giấc vào đêm,
440.-Dứt lìa vọng tưởng, im im ngủ vùi.
441.-Ngủ mơ hé nụ cười vui,
442.-Hít đều thở chậm, an nguôi giấc nồng !”
443.-Lời ru chẳng đợi chẳng trông,
444.-Không không vắng lặng, giấc nồng hư vô:
445.-“Trái tim nghiêng dốc cơ đồ,
446.-Thân ngay chỉnh túc, hơi vô hít đều !”
447.-Lời ru vắng lặng tình yêu,
448.-Gió duyên nghiệp vọng, gợi khêu nhân tình.
449.-Hơi ra liễu sự vô minh,
450.-Hít vào nhịp thở, quên mình : TÔN NGHIÊM.”
451.-Một tô, ly, điếu lặng im,
452.-Điểm tâm ăn sáng, ngập chìm suy tư.
453.-Lênh đênh như chiếc thuyền ngư,
454.-Trần phù một cõi, riêng tư quê nhà:
455.-"Gió thu trầm ấm chén trà, 
456.-Ánh TRĂNG thoáng hiện, bóng ngã soi trong.
457.-Chén pha chén đậm vòng cong,
458.-Mây hong tơ tóc, hỏi lòng: Tơ vương ?
459.-Bạn đời chất vấn: "Vô thường,
460.-Nay dời mai đổi, tình trường gian nan !"
461.-Mây đưa gió thổi thở than,
462.-Yêu thơ nàng bảo: "Trăng vàng mấy thương ?"
463.-Đáp rằng: “Trăng là biểu tượng,
464.-Trắng trong, lành mạnh, đêm trường soi chung.”
465.-Hình theo liền bóng ung dung,
466.-Bóng buông hình ngã, ta cùng rong chơi !
467.-Theo ta bóng ngự hình ơi,
468.-Trên đầu soi tỏ, trăng dời bước đi.
469.-Hương thôn Phương Thái, Phương Phi.
470.-Đồng quê nội ngoại: Trăng di quê nhà.
471.-Trăng ngà dời gót tiên sa,
472.-Trăng sang đồng lúa, trăng qua Gò Bồi.
473.-Sau ta bóng cứ lặng ngồi,
474.-Hình như TRĂNG đã, bồi hồi nhớ thương:
475.-“Hỏi sao: thơ Luật thơ Đường,
476.-Vần ôm gieo vận, không thương cách vần !
477.-Mây buồn lững thững phân vân,
478.-Gió lùa ngọn gió, phong trần là chi ?
479.-“Thơ là biểu tượng Lưỡng Nghi,
480.-Thái Cực ôm giữa, phân thì tứ phương."
481.-Bốn phương tám hướng đều thương,
482.-Hai ta xích lại, vấn vương tơ tằm:
483.-“Hôm nay đúng nguyệt trăng rằm,
484.-Thơ Trăng hò hẹn, trăm năm kết tình !”
485.-Nhạc lòng sóng nhạc tâm linh, 
486.-Bảy âm đúng chuẩn, sóng tình du dương:
487.-“Khóa xôn dòng kẽ đời thường,
488.-Bảy nốt trầm lặng, nguyệt nhường khóa pha.”
489.-Xướng âm nhạc điệu nào xa,
490.-Hồn tâm rung động, giao hòa: TRĂNG THƠ.
491.-Bóng trăng phản dội bất ngờ,
492.-Chiếu từng tia nhẹ, thẩn thờ ngợi khen.
493.-Tỏ rõ mây hờn mây ghen,
494.-Mờ mờ ảo ảo, mây chen trên đầu:
495.-“Hỏi chi tình sử mưa ngâu,
496.-Yêu nhau hò hẹn, qua cầu sông ô !”
497.-Hỏi bao nhiêu thước ô hô,
498.-Bóng trăng ngã bóng, lõa lồ nên thơ.
499.-Câu hỏi treo lửng bơ vơ,
500.-Mây mang giáo án, lững lờ trêu ngơ:
501.-"Biểu lộ tình cảm nên thơ,
502.-Lên đường xuống phố: TRĂNG chờ phố đông !
503.-MÂY lặng thinh trôi theo dông,
504.-Ái tình tầm sát: cuồng phong sét đánh !"
505.-Trái tim đánh cắp nguyệt hành,
506.-Rung từng nhịp đập, nắng hanh bên đồi:
507.-“Rằng thơ: bằng trắc lặng ngồi,
508.-Vận gieo ngữ điệu, nhịp rồi phải tra.
509.-Từ trong tự điển truy ra,
510.-Xúc cảm luyến láy, giao hòa tâm giao."
511.-Hạ qua thu đến dạt dào, 
512.-Gió đưa ngọn gió, ngọt ngào: THU PHONG."
513.-Lắng trong dòng đục cũng trong,
514.-Lòng trong chưa có, hoài mong chi ngoài ?
515.-Sự đời nội ngoại ai ơi !
516.-Cân phân công lý, nhớ đời xẻ chia...
517.-Trái tim ví xẻ chia lìa,
518.-Riêng mang nửa giữ, nửa chia đôi đàng !
519.-Cảnh đời nay hiệp mai tan,
520.-Cảnh đời đau khổ, giàu sang chia đều.
521.-Lý đời tình hận không yêu,
522.-Sự đời không có, bao nhiêu đáp đền ?
523.-Lời thưa tiếng mượn vững bền, 
524.-Chân tình trọn gởi, đắp nền: HOA ĐĂNG.
525-Sự đời muôn sự khó khăn,
526.-Thương nhau bảo bọc, đêm trăng thuyền tình:
527.-"Hoa đăng kết mộng xinh xinh,
528.-Trời đêm lóng lánh, mắt tình chông chênh.
529.-Phong ba bão táp gập gềnh, 
530.-Thuyền tình ghé bến, lênh đênh cội nguồn.
531.-Dòng sông chung một mưa tuôn, 
532.-Bao nhiêu con suối, luông tuồng ra khơi.
533.-Đêm Hoa Đăng, người tình ơi,
534.-Kết giăng đêm mộng, chơi vơi suối nguồn !
535.-Trăng đêm thơ họa in khuôn,
536.-Trà thơm bóng ngã, một buồng hoa cau.
537.-Hoa tình cười nụ trắng phau,
538.-Buông câu vó ngựa, nổi đau nhạt nhòa !
539.-Mai nầy núi Ngự ra hoa,
540.-Một bông hồng trắng, một tòa xinh xinh.
541.-Đôi ta mái ấm gia đình,
542.-Lung linh ngọn nến, chung tình lứa đôi !
543.-Bên tôi em khẽ lặng ngồi,
544.-Cúi đầu thinh lặng, hoa khôi mềm lòng.
545.-Âm thinh trầm ấm thanh trong, 
546.-Nhạc xưa ru gót, gió lồng bâng quơ.
547.-Gót hồng nở nụ nên thơ,
548.-Nhạc xưa lưu luyến, hận mơ chung tình ?
549.-Ngựa về cởi bỏ nhục hình,
550.-Tắm sông ẩn nhẫn : tâm tình duyên xa.
551.-Ngựa phi bỏ chốn quê nhà,
552.-Ngậm cười trăng nguyện, giao hòa : HOA ĐĂNG.”
553.-Nhất duyên Thi Sách đêm trăng,
554.-Nhị Thanh cư sĩ, nói rằng: "hàn đăng" !
555.-Hai nhà hai họ khó khăn,
556.-Anh là con trưởng, đăng trình lưu niên.
557.-Đống Đa một thuở lưu truyền,
558.-Danh ghi sử sách, ưu phiền cả hai:
559.-"Tiếc cho tình hận đêm dài,
560.-Nhị nguyên luận thuyết: đức tài so đo ?"
561.-Mẹ xưa buồn dặn âu lo,
562.-Tố Như Thúy Kiều, sóng gió nghĩa tình !
563.-Đoàn như Thị Điểm điêu linh,
564.-Thanh Quang hoài cổ, nghị trình trái cam ?
565.-Họ Trần Quốc Tuấn ! Đồng kham:
566.-Nguyễn Trãi, Lê Lợi, núi Lam phất cờ.
567.-"Buồn giăng con nhện giăng tơ,
568.-Tơ chùng dây cuốn, bơ vơ hững hờ ?"
569.-Một nhà hóa hợp nhị thơ,
570.-Hậu sanh khả úy, tình ngơ qua đò.
571.-Đò ơi ! chờ chở trăng to,
572.-Hoa cau rụng trắng, lửa lò lên cao !
573.-Một cơn gió nhẹ xốn xao,
574.-Ao thu trong vắt, gió vào lăn tăn.
575.-Mưa tình giọt nhỏ đêm trăng,
576.-Hoa đăng tình sử, khóc nhằn lệ rơi !
577.-Buồn đời nàng giận gió khơi,
578.-Gió gieo sóng gió, cho đời buồn thương:
579.-"Quỳnh hoa một đóa vô thường,
580.-Một con nhện trắng, buồn vương tơ sầu.
581.-Mạng giăng tận đáy sông sâu,
582.-TRĂNG còn trinh trắng, qua cầu sông ngân !"
583.-Nguyên cười hữu lý hạ nhân,
584.-Hải Uyên e ấp, châu trần là đâu ?
585.-Tai bay gió họa buồn rầu,
586.-Hoa đời rơi rách, buồn khâu phận buồn !
587.-Chinh Phụ Ngâm Khúc tròn vuông,
588.-Trần Côn họ Đặng, hóa nguồn thi ca.
589.-Trăng buồn vọng nhớ tình nhà,
590.-Thân sinh họ Nguyễn, giáo gia chân thành:
591.-"Hai mươi vạn cánh quân nhanh,
592.-Quân Thanh bỏ chạy, tường thành tan hoang.
593.-Xin chàng nghĩ lại lo toan,
594.-Tóc dài râu bượm, cúi loàn cũng khi !"
595.-"Uyên nên thú nhận: Nhật Ký,
596.-Mong cha nghĩ lại, duyên thì hai ta !"
597.-"Đống Đa trung học vọng ca,
598.-Yêu mà chẳng hận, không tha đánh đòn."
599.-Uy tín trong sạch vuông tròn,
600.- Nhất ngôn không dụng, héo mòn trăm năm !
601.-Vu Lan Kính Mẫu trăng rằm,
602.-Hiển hóa chân tâm, ghé thăm nghĩa tận !
603.-Cầu mẹ: Đạo Mẫu phong vân,
604.-Đắc thành chánh quả, nghiệp lần giải sạch:
605.- Mẹ : "Da trắng vỗ bì bạch !"* (Câu đối của Đoàn Thị Điểm)
606.-Em giặt vỗ vẫn chưa sạch, ngao ngán !
607.-"Mẹ vui, vì anh phát chán."
608.-Anh vòng tay vỗ trán trắng, trắng trong.
609.-"Mẹ vung tay em cong cong."
610.-Anh giờ thong dong, ngồi hong hong nắng.
611.-"Mẹ cầm tay em trong trắng"
612.-Anh xâm chiếm ngự, hồn Trăng xinh lịch.
613.-"Mẹ cười cấm chuyện bồ bịch"
614.-Anh: "Chiếu vàng rơi hịch huỳnh !" đối chưa ?
615.-Anh nhanh trí, em dây dưa,
616.-"Hịch tướng sĩ anh, ai ưa phát chán !
617.-Mẹ giặt sông sâu, sông cạn ?"
618.-Anh yêu bịnh muốn phát hạn: mồ hôi...
619.-Em gần, hữu hạn, xa tôi,
620.-"Đầu anh em hôn: nổi trôi nơi nào ?"
621.-Hịch và chiếu chỉ giống hao,
622.-"Được ! xin vua "chém", lộng trào sánh đôi !"
623.-Bóng thay hình đổi hết rồi,
624.-Thái hình "lan" bóng, đổi ngôi cho đều !?!
625.-Hai hai, mười hai, tình yêu,
626.-Ngày hai tháng chín, xếp chiều quay ngang ?
627.-Chào mừng đón rước hai hàng,
628.-Thành hôn hữu sự, khang trang duyên tùng.
629.-Đánh "huân tập" ! Sĩ trung dũng,
630.-Tướng, chiếu ! A, phận tùng em theo !
631.-Phạm thượng chi hạ chi eo,
632.-Chi chi lan huệ, dù "nghèo" có theo ?
633.-Đế Vượng cung mạng mà nghèo !
634.-Hàm oan em cũng, quyết theo đến cùng.
635.-Họ Đinh còn nhớ thơm chung,
636.-Mười hai thập nhị, não nùng dễ thương.
637.-Cờ lau trắng ngọn ngập đường,
638.-Hoan ca vui hát, phố phường đẹp duyên ?
639.-Nàng cười em thất lời nguyền,
640.-Tình xưa giả biệt, phận thuyền đa mang.
641.-Huống hồ tâm sự riêng than,
642.-Xin chàng bỏ hẵn: tâm can muộn phiền !
643.-Tình xưa viễn xứ chung riêng,
644.-Thanh Thanh lý giải, chẳng thiêng tôn thờ.
645.-Khó lòng quân tử bơ vơ,
646.-Trắng trong hồn dại, nên thơ tìm về.
647.-Chèn ! người... hồn khuất sơn khê,
648.-Nhồi thêm tí nữa: "Em về nhà trông !"
649.-Gối tình may vá thêm bông,
650.-Xin chàng lưu giữ, bánh hồng tui lo !
651.-Nhị trùng âm điệp ó o,
652.-Nguyệt vào bóng hạ, qua đò: "đợi nha !"
653.-Thần tiên ám ảnh gió qua,
654.-Trèo lên cung quế, sáng nhà : Hồng Đơn.
655.-Bút đưa liền nét giận hờn,
656.-Tô nền pha đậm, gió vờn quạt xoay.
657.-Sự đời đen dạ đổi thay,
658.-Tình đời trắng dạ, qua ngày chiêm bao.
659.-Duyên trao tình gởi khát khao,
660.-Nữ trung tùng phận, má đào nên thơ:
661.-."Đêm thâu tròn vẽ mộng mơ,
662.-Sáng ra tỉnh mộng, rõ ngờ như tranh.
663.-Đoái nhìn trông cảnh trời xanh,
664.-Mây bay gió thoảng, chạy quanh núi đồi.
665.-Trang tình sử: chuyện hoa khôi,
666.-Lòng thương bỗng nhớ, ai ngồi đợi trông !
667.-Người về qua chợ phố đông,
668.-Ai về ngắm cảnh, bụi hồng vấn vương.
669.-Người đi thương nhớ tang thương,
670.-Người đi kẻ ở, tình trường sang canh.
671.-Đêm về cầm cọ vẽ tranh,
672.-Thoáng trong hồn mộng, mong manh “bụi hồng”:
673.-Thiêng liêng minh triết đại đồng,
674.-Không điều chia rẽ, vợ chồng đau thương.
675.-Thiêng liêng minh triết vấn vương,
676.-Tình chàng ý thiếp, tình thương đôi đàng.
677.-Anh về thưa họ hai hàng,
678.-Hồng loan phận liễu, ngập tràn niềm vui.
679.-Thơ lòng nàng đã yên xuôi,
680.-Thẩm vào tim cạn, ngậm ngùi cưu mang.
681.-Trái tim giờ đã ngập tràn,
682.-Hồn hoang loan phụng, đôi đàng đẹp duyên !
683.-Hôm nay ta có lời nguyền,
684.-Nguyện đem son sắc, lưu truyền mai sau.
685.-Biết là tình hận cũng đau,
686.-Đành mang nghĩa cả, một màu hoang lương.
687.-Nghĩa ân tình ái là thương,
688.-Em về thưa lại: đôi đường hợp duyên !
689.-Hiểu rằng phận gái thuyền quyên,
690.-Phận tùng cam phận, chính chuyên một chồng.
691.-Vô thường dâm bụt ra bông, 
692.-Đa mang tình ái, nắng hồng mưa sa !
693.-Ngồi buồn đưa mắt ngó qua,
694.-Nhân sinh vạn hữu, ngợi ca nhất đồng.
695.-Xót thương cảnh vật ngửa trông, 
696.-Nghĩa không phiền muộn, nghĩa đồng vô ưu:
697.-"Thực tại tồn sinh hiện hữu,
698.-Vạn hữu quy không, thành tựu nhất đồng !
699.-Đồng tâm, hiệp ý, đồng lòng, 
700.-Tâm chơn hợp trí : mới mong hòa bình."
701.-Nghĩa là vô tận ý sinh,
702.-Tâm tình hiệp nhất, quy tình nhớ trông !
703.-Xuân về vạn thọ đơm bông,
704.-Lá xanh bông đỏ, tưới trồng xuân sang.
705.-Xuân đi xuân đến ngập tràn,
706.-Ra giêng anh cưới, họ hàng đông vui.
707.-Tuổi hoa niên thiếu ngậm ngùi,
708.-Tuổi thành gia thất, sui gia họp đoàn :
709.-“ Hợp hôn thế sự vuông tròn,
710.-Phải tuân phép nước, sắc son tình nhà.
711.-Trước là xuôi thuận mẹ cha,
712.-Đôi đàng hai họ sui gia kết tình…”
713.-Lớn lên nên lập gia đình,
714.-Phải yêu thương vẹn, chung tình là sao ?
715.-Sự đời ai cũng khát khao,
716.-Nghĩa ân tình ái: khác nào sợi dây !
717.-Giữ thời trung nghĩa dựng xây,
718.-Siết chặt rồi thả, ngây ngây phận hồng.
719.-Thân người quý trọng cho đồng,
720.-Thương thân quý ngọc, mới mong khéo gìn.
721.-Nhớ thương hai chữ niềm tin,
722.-Gương hạnh nêu giữ, chín tin một ngừa !
723.-Hỏi rằng: như vậy có thừa,
724.-Có ham nghệ thuật, mây mưa chăng là ?
725.-Da hồng máu thắm ngợi ca,
726.-Tinh khôi trong trắng, ngọc ngà: TỒN LƯU."
727.-Hành sự mưu sự vô ưu,
728.-Dụng tính tâm lý, như cừu dê non.
729.-Ham vui lạc thú vẹn tròn,
730.-Dục tâm mong muốn, héo hon khổ sầu !
731.-Lành thay ! thương ngọc tiếc châu,
732.-Rồng kia hóa hiện, phục thâu ta quỳ.
733.-Còn thương còn giận bớt si,
734.-Đăm chiêu chăm chú, một thì duyên trao !
735.-Khẩu thương tâm phục khác nào,
736.-Hoa khoe nụ thắm, ngọt ngào hôn môi !
737.-Hoa tình ẩn nụ hoa khôi,
738.-Trăng soi bóng ngã, đứng ngồi cho nhanh.
739.-Rồng theo xương thận quấn quanh,
740.-Như xưa chỉ dạy, hợp thành trầu cau.
741.-Thừa Phò án ngự trắng phau,
742.-Mông lung tròn sự, thuộc làu thêm lâu.
743.-Huyệt giữa bàn tọa đàm thâu,
744.-Luận bàn Thiền đạo, ví châu hóa rồng !
745.-Ngọc Hành, Ngọc Chẩm huyệt thông,
746.-Nước thừa dư thải, ta vừa tống ra.
747.-Hai ta hóa hợp giao hòa,
748.-Dương Long, Âm Long THIỀN tọa cho xong.
749.-Hai rồng hai thận trắng trong,
750.-Hơi vào tham thấu, níu tròng hơi sâu.
751.-Hơi dài hít thở thật lâu,
752.-Như vừa giao hợp, như trầu quấn cau.
753.-Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu thuộc mau,
754.-Bốn thời tham thấu,về sau hai thời.
755.-Ý trong tình ý không lời,
756.-Ngậm miệng răng cắn, ta thời nuốc tân.
757.-Tân là Tân Dịch trong ngần,
758.-Nước nơi hàm ếch, lâng lâng uốn liền !
759.-Khác nào như nuốc thuốc Tiên,
760.-Giáp nơi đầu lưỡi, vòng khiền lọc trong.
761.-Hai dây Cam Lộ thong dong,
762.-Vòng theo một tháng, một vòng nguyệt kinh.
763.-Nghĩa ân tình ái lặng thinh,
764.-Đều đều nhè nhẹ, ý tình vọng không.
765.-Ẩn nơi gốc lưỡi lưu thông,
766.-Thẩm màu đen thống, ta thời chích châm !
767.-Cẩn trọng nhè nhẹ nhấn tầm,
768.-Khai thông huyết ứ, âm âm rên hừ.
769.-Thần kinh giao cảm huyễn như,
770.-Kích thích khoái cảm, từ từ tự nhiên !
771.-Trăng rằm ngày ấy nên kiên,
772.-Nhân Thần tứ táng, ưu phiền không đâu…!
773.-Trăng buồn rơi rụng xuống cầu,
774.-Trăng trôi ra biển: bể sầu rạng đông.
775.-Chàng ngồi nhẩm tính chơi "ngông",
776.-Ba hôm trước đã biết trồng cây si.
777.-Kinh qua nguyệt đến chu kỳ,
778.-Biết thêm gia giảm, nhật thì nửa gia...
779.-Âm dương hóa hiệp giao hòa,
780.-Gia đình êm ấm, cửa nhà thêm vui.
781.-Chuyện riêng tư, quá ngậm ngùi,
782.-Thương cho thân phận, dập vùi mưa sa.
783.-Tháng ngày cho rõ kẻo xa,
784.-Trăng treo đầu ngõ, hóa ra trăng rằm.
785.-Tình chồng nghĩa vợ trăm năm,
786.-Giữ chung khởi thủy, xa xăm tận cùng.
787.-Thủy chung giữ trọn ung dung,
788.-Hạnh phúc cùng hưởng, não nùng không xa.
789.-Giờ Dậu ai bảo không gà,
790.-Không bươi không móc, có là thóc ăn ?
791.-Thành tâm sám hối ăn năn,
792.-Không nhận không biết, tội chăng chi là !
793.-Tâm vua là chủ thân ta,
794.-Lập ngôi lập vị, phân ra cho đều.
795.-Giang sơn thân thể yêu kiều,
796.-Áo quần thành quách, theo chiều quấn quanh !
797.-Ăn thời tinh khiết tinh anh,
798.-Trắng trong thơm thảo, xuân xanh tâm hồn.
799.-Ai thời biết dại nên khôn,
800.-Khăn tắm quấn ngực, ôn tồn giảng phân:
801.-“Khuyên chàng chế ngự đêm tân,
802.-Ngày sau kỷ niệm, ta gần như mơ !
803.-Tiết trinh gìn giữ tôn thờ,
804.-Gương nêu hạnh giữ, bơ vơ con mình."
805.-“Hôm nay ngày ấy lung linh,
806.-Nến vàng vừa thắp, chút tình chung lưu.
807.-Lửa lòng bén ngọn vô ưu,
808.-Ba ngày trước đã, tựu thành đúng không ?
809.-Khuyên nàng đừng bảo ta "ngông",
810.-Tình chồng nghĩa vợ, nắng hồng mưa sa !”
811.-Cuộc đời rồi cũng chóng qua,
812.-Trăm năm nghĩ lại, đúng là quá mau.
813.-Nàng cười đỏ nụ thắm màu,
814.-Ba ngày nữa sẽ, thương đau tránh gần.
815.-Rượu giao bôi nhấp lâng lâng,
816.-Biết hồng trần khổ, lụy phần giao loan.
817.-Phượng tùng phận liễu hiền ngoan,
818.-Dâu hiền rễ thảo, hứa tròn “thủy chung” !
819.-Hôm nay ngày lễ quy tùng,
820.-Hội nầy tham dự, trung dung đạo đời.
821.-Sao kia còn đổi vật dời,
822.-Tâm điển tri nhận, thiện lời nói thay:
823.-“Ác đời ăn mặn nói ngay,
824.-Tâm chơn thiền định, Giới thay đổi rồi.
825.-Định, Huệ thời khắc đổi ngôi,
826.-Song hành, tam hiệp, ta ngồi cho thông.”
827.-Lý kinh huyết dẫn khí động,
828.-Tam Âm Giao huyệt, nội công giao hòa.
829.-Tam kinh thống ngự một tòa,
830.-Xả rồi thiền định, tay xoa vuốt đều.
831.-Tư tưởng Phật giáo trong Kiều,
832.-Lời thơ chỉ dạy, như nêu gương vàng.
833.-Nói rồi quỳ lạy đôi đàng,
834.-Chân tọa quỳ mọp, hai hàng lệ rơi !
835.-Tay ôm đầu nhẹ thảnh thơi,
836.-Tam tùng phận liễu, một đời keo sơn.
837.-Thương nhau chớ giận chớ hờn,
838.-Chớ nên so sánh, nguồn cơn thảm sầu.
839.-Tay nâng tay hứng ngọc châu,
840.-Túc Tam Lý huyệt, hạt đậu phồng to.
841.-Chàng rằng: gạt bỏ sầu lo,
842.-Lưng thời kề tựa, nhỏ to tình nồng !
843.-Hỏi rằng: Kiều nữ chung chồng,
844.-Trinh lương tiết nữ, có không vậy chàng ?
845.-Tai nghe cảm xúc bàng hoàng,
846.-Mơ màng tỉnh mộng, rõ ràng tai ương.
847.-Biết rằng sầu hận cũng thương,
848.-Cũng tai tiếng xấu, bụi đường cưu mang.
849.-Chuyện đời thấm nghĩ ngỡ ngàng,
850.-Bẽ bàng duyên phận, cho chàng thuở xưa.
851.-Tình sâu nghĩa nặng sao vừa,
852.-Buộc vào oan trái, mây mưa gió lòng.
853.-Ghen tuông gợn đục khơi trong,
854.-Lửa tình vừa nhóm, chàng chong thêm đèn.
855.-Tay ôm nhật ký bao phen,
856.-Soi đèn chàng đọc: “Dế Mèn Phiêu Lưu” !
857.-Hồi ký, nhật ký thành tựu,
858.-Vài đoạn văn phú khảo cứu…Nàng rằng:
859.-“Nhật nguyệt giao hòa giao động,
860.-Bóng giao thoa nhận, có không vậy mà?”
861.-Thật ra vào đó hoang ca,
862.-Tọa Thiền thú thiệt, tiền qua tay người.
863.-Hỏi rằng tâm có hổ ngươi,
864.-Có người minh chứng, nên cười hay nhăn.
865.-Hỏi rằng tu có khó khăn,
866.-Lương tâm tri nhận, tọa năng chính mình.
867.-Tội do tâm diệt tầm thinh,
868.-Tâm sinh điển tích, nhục hình gồm thâu.
869.-Hỏi rằng vậy có mong cầu,
870.-Cả Giới, Định, Huệ ngọc châu chi là…
871.-Noi gương Thiền Định Yo-ga,
872.-Tu cùng khắp cõi, ta-bà chứng tri.
873.-Nàng cười tưởng nói chuyện chi,
874.-Duyên tùng năng ngộ, nghĩ suy lòng chàng.
875.-Khởi từ nghĩa nặng tâm cang,
876.-Hỡi người cương trực, chớ than thở hoài !
877.-Chuyện riêng tin ở bên ngoài,
878.-Đem vào gia sự, cảm hoài thiết tha.
879.-Biển trong dòng đục cũng qua,
880.-Lắng sâu vời vợi, Phật đà chứng tri.
881.-Tin người “nói thọc” mà chi,
882.-Đem vào gia sự, sân si ba đào.
883.-Đoái thương nghĩ tưởng anh hào,
884.-Ra tay cứu giúp, dạt dào an nguôi.
885.-Trắng màn quá khứ tới lui, 
886.-Trãi qua khô hạn, ngậm ngùi mưa sa:
887.-"Trăng rơi rơi rụng đường xa,
888.-Trăng đi quanh quẩn, qua đêm trăng gần ?"
889.-Cảm thương duyên phận hồng trần,
890.-Nhị trùng thùy điệp*, lâng lâng ái hòa. (điệp: bướm)
891.-Giác duyên thân hữu ngự tòa,
892.-Sen thiêng hóa hiệp, sáng lòa tâm chơn.
893.-Xin nàng bỏ giận bỏ hờn,
894.-Lao Cung huyệt vị, chập chờn hồng ân.
895.-Lắng trong tâm sự trong ngần,
896.-Bướm đêm ưu ái, pháp trần hành gia !
897.-Lưu truyền mai hậu câu ca,
898.-Còn trong ý niệm, giao hòa mưa ngâu:
899.-"Giang hồ hành hiệp nơi đâu,
900.-Thanh Thanh lý giải: hiểu câu chung tình ?"
901.-Lạy trời tạ đất điêu linh,
902.-Tạ cơn mưa sám, lạy minh chánh đạo.
903.-Gia đình liễu sự nao nao,
904.-Đề mục chuẩn thế, khác nào ra đi !"
905.-MINH thiên huệ nhựt tình si ?
906.-ĐĂNG trình quá khứ, tình đi mất rồi...
907.-QUANG là ánh sáng rõ soi,
908.-Sự thật viên mãn, chớ bôi nhớ lời:
909.-“Xa y, ê lắm Người ơi,
910.-Cao cả vì đạo: nhớ lời vậy, a !”
911.-Thiện, Chân hòa Mỹ xuất gia,
912.-Thay hồn đổi xác, vậy mà nên thân.
913.-Hôm nay còn ẩn ân nhân,
914.-Dường như đã gặp: bội phần mừng hơn ?
915.-Bao giờ hậu thế hết hờn,
916.-Hết thương hết giận, rõ cơn mê đời !
917.-Vậy nay, nói hết cạn lời,
918.-Ấy mà suy ngẫm: Thảo khơi ý rồi !”
919.-Khuyên ai nghĩ lại chớ bôi,
920.-Chớ nên vọng động, bồi hồi : thêm công !?!
921.-Nói rồi lửa giận bớt xông,
922.-Khui bia cùng uống, má hồng thêm duyên !
923.-Hình lưu bóng hiện hứa nguyền,
924.-Chàng đưa minh chứng, ưu phiền xóa tan.
925.-Đối chiếu nhật ký rõ ràng,
926.-Bàng hoàng thức tỉnh, vén màng vô minh.
927.-Yêu không ghen hận đa tình,
928.-Hy sinh danh phận, anh minh không tà.
929.-Lời nghe cảm thấu Hằng Nga,
930.-Bản năng xung động, giao hòa yên xuôi.
931.-Cảm thương riêng phận ngậm ngùi,
932.-VU QUY  hòa hợp, chung vui nàng cười.
933.-Nghe chàng nói thiệt rõ người,
934.-Tâm cang quân tử, hoa tươi nụ hồng.
935.-Động quang mây tạnh trống không,
936.-Nhớ người minh chứng, quạt nồng vô lo.
937.-Tâm mừng hỷ xả học trò,
938.-Trường đời bài học, của kho sưu tầm.
939.-Tịnh tâm quán tưởng kẻo lầm,
940.-Phong sương gió bụi, quang lâm rạng ngời !
941.-Năng tùng duyên khởi chuyện đời,
942.-Sống theo trung đạo, chớ khơi dâm tà.
943.-Thương nhau tình nghĩa không xa,
944.-Ngoại tình bội bạc, phôi pha tình nồng.
945.-Đắng cay duyên phận má hồng,
946.-Tương tư khổ hận, tình không phụ tình.
947.-Quán Âm Cứu Khổ tầm thinh,
948.-Du dương trầm bỗng, thánh linh nhập phàm.
949.-Nam mô Bồ Tát Già Lam,
950.-Nhớ thầy dạy đạo, nên kham nhẫn nhường.
951.-Kính lạy Phật pháp mười phương,
952.-Tình chồng nghĩa vợ, phải nương dựa kề:
953.-"Phong sương gió bụi đam mê,
954.-Chân tình hòa hiệp, nhiêu khê gập gềnh.
955.-Cúi xin lạy tạ ơn trên,
956.-Đem lòng hòa hiếu, đáp đền ân sâu !
957.-Lời vàng gội rửa hận sầu,
958.-Kim ngôn ngọc ngữ, ví câu yêu đời.
959.-Khuôn vàng thước ngọc sáng  ngời,
960.-Đêm tân hôn, đêm tuyệt vời hạnh phúc.
961.-Ôm ấp thân yêu trần tục:
962.-"Thảo nguyện thề giam ngục, bóng hình Uyên !"
963.-Lòng ngưỡng mộ, sóng gợn thuyền,
964.-Nụ tình môi mọng, trinh nguyên da ngà.
965.-Trăng ngã thuyền tình khơi xa,
966.-Chong chênh đáy mắt, giao hòa mi xinh.
967.-Bóng soi thoáng hiện trăng tình,
968.-Vén mây e ấp, nụ xinh trắng ngà.
969.- Hồng hoang hoa nụ nõn nà,
970.-Vô thường một đóa, hằng nga: "Tuyệt Vời !"
971.-Khêu trăng đáy nước đầy vơi,
972.-Thuyền soi bóng ngã, sáng ngời lăn tăng.
973.-Thuyền mây hòa quyện bóng trăng,
974.-Ước nguyền nguyện thỏa, sao giăng bến bờ.
975.-THÀNH HÔN hữu sự trăng thơ,
976.-Giao bôi ly cạn, bến mơ chung tình.
977.-Rạng ngời một đóa nụ xinh,
978.-Giao hòa xúc cảm, chúng mình nên duyên !
979.-Hiểu rằng phận gái là thuyền,
980.-Mười hai bến nước, lưu truyền dân gian:
981.-"Thập nhị nhân duyên đạo tràng,
982.-Nhị thập tứ hiếu, chàng nàng đẹp đôi !
983.-Rạng ngời cười nụ hoa khôi,
984.-Tinh hoa son sắc, nổi trôi dòng đời.
985.-Thuyền tình lướt gió vọng khơi,
986.-Hồn nguyên trinh vẹn, chơi vơi sóng tình.
987.-Gió đưa sóng gió tôn vinh,
988.-Biển tình gào thét, tâm tình hiến dâng.
989.-Sóng đưa bọt biển trắng ngần,
990.-Thân kề má ấp, duyên trần đẹp duyên:
991.-"Tình đời hai chữ thuyền quyên,
992.-Yêu đương tình ái, thệ nguyền mộng mơ.
993.-Biển lòng sóng vỗ nên thơ,
994.-Sóng lòng bến đỗ, qua bờ sông ngân.
995.-Thuyền tình dào dạt lâng lâng,
996.-Đêm trao kỷ niệm, hồng trần chứng tri.
997.-Biết rằng chữ phận duyên thì,
998.-Duyên trao tình gởi, luật nghi giữ gìn.
999.-CƯ SĨ TẠI GIA CHÁNH TÍN,
1000.-Truyện thơ lục bát, niềm tin: LƯU TRUYỀN.
1001.-Hậu sanh khả úy hữu duyên,
1002.-Tu nhân tích đức, phước thiện tồn lưu.
1003.-Nhân tình cười nụ vô ưu,
1004.-Đài hoa xuân sắc, thiện hữu hóa duyên.
1005.-Nhụy hoa nguyên vẹn trinh nguyên,
1006.-Nụ hôn trao tặng, ước nguyền yêu nhau !
1007.-Sóng thuyền lướt gió thương đau,
1008.-Bến bờ sóng vỗ, trắng màu nguyên sơ.
1009.-Bạc đầu hẹn ước trăng thơ,
1010.-Gió đưa ngọn sóng, xa bờ vươn cao.
1011.-Sóng xô sóng vỗ dạt dào,
1012.-Biển ru lời gió, hét gào đam mê.
1013.-Nõn nà gợn sóng tái tê,
1014.-Tinh khôi Uyên Thảo, vỗ về sóng xô.
1015.-Trăng soi ngã bóng lõa lồ,
1016.-Thơ trăng hòa quyện, khôi ngô: NỤ TÌNH."
1017.-Gió đưa gió đẩy tiếp nghinh,
1018.-Phong ba bão táp, tâm tình hiến dâng:
1019.-"Âm thinh hòa nhã lâng lâng,
1020.-Hồng loan dâng tặng, tựu phần hoang ca:
1021.-"Mạch rồng phụng nỡ tránh xa,
1022.-Trắng màu trinh bạch, hồng pha huyết tình !"
1023.-Ô hay, thương quá hồng xinh,
1024.-Tuyết sương loan phụng, chứng minh lòng nàng.
1025.-Khăn xoan minh chứng rõ ràng,
1026.-Khen người thục nữ, đoan trang nhu mì.
1027.-Thỏa lòng tế nhị tu trì,
1028.-Vẹn bề gia thất, luật nghi giữ gìn.
1029.-Ngũ Giới Lục Hòa chánh tín,
1030.-Như lời chỉ dạy, trăm nghìn uy linh.
1031.-Cúi đầu lạy tạ ân sinh,
1032.-Tưởng công cha mẹ, đinh ninh hội nầy !
1033.-Nguyện lòng gìn giữ dựng xây,
1034.-Gia đình hạnh phúc, hiệp vầy phượng loan.
1035.-Hỡi người thục nữ hiền ngoan,
1036.-Nhà sanh con thảo, nguyện tròn thủy chung.
1037.-Nói rồi chàng nhẹ ung dung,
1038.-Án ngay khúc khủy, ngại ngùng vừa xong.
1039.-Khúc Trì tay nhẹ trắng trong,
1040.-Nương thân ngà ngọc, đêm hồng: DUYÊN TRAO."
1041.-Tấm thân xuân sắc hồng hào,
1042.-Khéo nâng khéo giữ, má đào thêm duyên !
1043.-Ngọa thiền nàng nhẹ quay nghiêng,
1044.-Tay chống án huyệt, thệ nguyền tùng gia.
1045.-Tình chung đôi trọn hai ta,
1046.-Trăm năm nguyện giữ, cho qua tận cùng.
1047.-Cúi xin quân tử tình chung,
1048.-Nương thân thục nữ, ta cùng nghỉ ngơi !
1049.-An Miên huyệt ngự thảnh thơi,
1050.-Tay trái giải mỏi, tay phải thời nương.
1051.-Tình chồng nghĩa vợ yêu đương,
1052.-Thân kề nương tựa, tình thương tôn thờ.
1053.-Đẹp duyên phu phụ nên thơ,
1054.-Quân tử thục nữ, trăng mơ nguyệt nhường.
1055.-Anh minh mộng đẹp vô thường,
1056.-An Miên, Thiên Trụ, huyệt thường tăng nhớ.
1057.-Áp đầu sau gáy bấm đỡ,
1058.-Thân ngay nương tựa, như tờ chánh niệm.
1059.-Ban ngày sách vở lặng im,
1060.-Chép bài viết pháp, ta chìm giấc sâu.
1061.-Chánh niệm thiền định hai câu:
1062.-“Năm là, Nhớ tưởng đạo lý." nhiệm mầu.
1063.-Ký ức lập lại thâm sâu,
1064.-Tự động niệm niệm, gồm thâu ý tình.
1065.-"Sáu là, Nhứt tâm đại định.”
1066.-Diệu linh pháp bảo, chơn linh hộ trì.
1067.-Huyền vi pháp nhiệm từ bi,
1068.-Tấm lòng thương xót, vô vi đại từ.
1069.-Trí huệ thiền định chơn như,
1070.-Tấm thân bát nhã, thuyền từ vô nan !
1071.-Vi nhân thân lâm khổ nạn,
1072.-Chánh trí giải thoát, vượt ngàn đau khổ.
1073.-"Vui chịu với mọi cảnh ngộ"
1074.-Duyên tùng năng khởi, cứu độ nhân sinh.
1075.-Quán âm thầm nghĩ tầm thinh,
1076.-Xét suy ưu ái, tâm tình tại gia.
1077.-Thâm nhập thiền định yo ga,
1078.-Giữa đời kham nhẫn ta-bà tâm minh.
1079.-Minh tâm kiến tánh tầm thinh,
1080.-Ghi lòng khắc cốt, vô sinh ý tà.
1081.-Không sinh dục niệm yo ga,
1082.-Hơi thâu sinh khí, thở ra hít vào.
1083.-Cắn răng uốn lưỡi ngọt ngào,
1084.-Dịch tân cam lộ, nuốc vào hơi ra.
1085.-Ý trong tình ý chan hòa,
1086.-Không không chậm nhẹ, nhạt nhòa an ngơi.
1087.-Trầm luân bể khổ là đời,
1088.-Tu thân chuyển hóa, rạng ngời tấm thân.
1089.-Khí sinh huyết nhẹ chuyển vần,
1090.-Thần minh tâm trụ, phân vân chánh tà ?
1091.-Cơn mê tình ái sóng qua,
1092.-Bình yên gió lặng, trăng ngà soi chung.
1093.-Thập can, thập nhị, cửu cung,
1094.-Ngày giờ định vị, tam tùng diệu linh.
1095.-Tội tâm diệt, tội tâm sinh,
1096.-Thánh thai hòa hiệp, bóng hình tạo ra.
1097.-Âm dương hóa hợp một nhà,
1098.-Hơi thở đều đặng, máu hòa chuyển luân.
1099.-Mạch nhâm mạch đốc nghỉ ngừng,
1100.-Luân xa lửa tắt, gió hừng lặng thinh.
1101.-Lắng nghe tim đập thịch thình,
1102.-Sóng đưa thân nhẹ, gập gềnh dòng sông.
1103.-Tay vươn áp lực gió lồng,
1104.-Thân thuyền bát nhã, cậy trông bến bờ.
1105.-Ngược dòng chờ đợi bến mơ,
1106.-Máu tuông chảy nhẹ, đầu hờ rời tay !
1107.-Mặc cho gió nổi lắc lay,
1108.-Chìm sâu giấc ngủ, thân ngay tựa kề.
1109.-Tình chồng nghĩa vợ phu thê,
1110.-Nâng niu trợ giúp, vỗ về anh minh.
1111.-Hạnh nêu nết hạnh tâm tình,
1112.-Diệu linh thâm nhập, rõ mình rõ ta !
1113.-Không mơ không tưởng chuyện tà,
1114.-Vững tâm bền chí, một nhà tình thương.
1115.-Gió đưa hương nhẹ nhiên hương,
1116.-Trăng khuya e ấp, đêm trường ngủ sâu.
1117.-Ngủ vùi cau tựa thân trầu,
1118.-Xoay nghiêng chân thẳng, ngõ hầu bình an.
1119.-Chìm sâu hơi thở nhịp nhàng,
1120.Thời gian quên lãng, mơ màng riêng ai ?
1121.-Tiên thiên thân ngự thiên thai,
1122.-Hậu thiên chánh sự, ai hoài riêng mang.
1123.-Thời gian thắm thoát ngỡ ngàng,
1124.-Ngày qua tháng lại, đôi đàng quen hơi !
1125.-Cành hồng nương tựa an ngơi,
1126.-Bát Nhã uyên thâm, thuyền trời lướt tới.
1127.-Huyết hà máu chảy nguồn khơi,
1128.-Nhè nhẹ chầm chậm, nghỉ ngơi yên lòng.
1129.-Quay về nguồn cội lắng trong,
1130.-Giật mình tiếng sét, trời long đất lỡ.
1131.-Giữa đêm thức giấc lơ mơ,
1132.-Mộng không thấy mộng, mũi ngơ khét mùi.
1133.-Tầm Sát ấn chứng an nguôi,
1134.-Não bộ thông thoáng, ngủ vùi nồng say !
1135.-Rảnh thời Chiếu Hải liền tay,
1136.-Dưới nơi mắt cá, sáng ngày chân trong.
1137.-Đêm nồng Ẩn Bạch, Phong Long,
1138.-Tẩy trần uế sạch, cho lòng thêm vui !
1139.-Bàn chân nàng ngự ngậm ngùi,
1140.-Tay nâng Chiếu Hải, ngọt bùi lướt quanh.
1141.-Tay án kéo ngón thật nhanh,
1142.-Thần kinh giao cảm, tựu thành xít xoa.
1143.-Hưng phấn gợi khêu như hoa,
1144.-Dũng Tuyền phong nhụy, ngự tọa suối tiên.
1145.-Sương pha màu trắng ngã nghiêng,
1146.-Gió lay hoa động, giữa miền thiên thai.
1147.-Ô long trà đậm hương lài,
1148.-Bóng trăng nhòm ngó, sóng xoài bên hiên.
1149.-Trăng giờ hóa hiện niềm riêng,
1150.-Cơ năng thư giãn, ưu phiền hết ngay.
1151.-Giải mỏi hiệu nghiệm lắm thay !
1152.-Thật ra Thân Mạch, ngự ngay bên ngoài.
1153.-Giao hòa thông lưu nội ngoại,
1154.-Song hành hiệp nhất: Khiếu toại nguyện Âm.
1155.-Áp út phòng chống thậm thâm,
1156.-Đúng là vi diệu, ngụ ngầm ung thư.
1157.-Ngày Giáp, giờ Tuất huyệt ngự,
1158.-Khai mở phối hợp, não thư Huyền Chung.
1159.-Tỷ hội Tuyệt Cốt là cùng,
1160.-Hai tên huyệt gọi, nghĩa chung một đồng.
1161.-Ngũ môn thập biến vợ chồng,
1162.-Mẹ con thay thế, rõ trông kịp giờ:
1163.-"Giáp cùng Kỷ hợp Thổ cơ,
1164.-Ất cùng Canh hợp, tỏ mờ nên Kim.
1165.-Bính cùng Tân hợp nên thêm,
1166.-Tương sinh hóa Thủy, vậy tìm huyệt châm.
1167.-Đinh cùng Nhâm hợp thâm trầm,
1168.-Hỏa vượng sinh Mộc, nhớ tầm tốt gan.
1169.-Mậu cùng Quý hợp đôi đàng,
1170.-Chánh Hỏa thịnh vượng, Tâm can huyết hòa.
1171.-Trước là chủ huyệt khai hoa,
1172.-Sau là khách huyệt, giải tỏa cơn đau.
1173.-Giờ chủ không mở khách mau,
1174.-Liền liền châm cứu, diệu mầu ví von.
1175.-Kinh hư bổ mẹ tả con,
1176.-TÝ NGỌ LƯU CHÚ, lo tròn bệnh an.
1177.-Dương sanh âm tử đôi đàng,
1178.-Âm sanh dương tử, rộn ràng nạn tai !''
1179.-Bát Pháp huyệt gái huyệt trai,
1180.-Dương Duy, Mạch Đới, nhớ khai thông giờ.
1181.-Thương Khâu xin chàng rộng mở,
1182.-Ngày Quý, giờ Tỵ "phớt lờ", quỳ hương.
1183.-Đoái trông ngũ trược xót thương,
1184.-Cốt thư, ghẻ độc: tình trường sống gai !
1185.-Thân chàng trụ cột ngày mai,
1186.-Lo toan phương tiện, tiền tài chung lo.
1187.-Góp tài góp sức của kho,
1188.-Kiến tha đầy tổ, một lò luyện đan.
1189.-Đan điền hóa khí vô nan,
1190.-Ngũ trung tầm phục, an khang thuyền từ:
1191.-"Chiêm bao thấy quỷ đau nhừ,
1192.-Nhức đầu, tim nóng, rên hừ lưỡi đơ !
1193.-Ngày Mậu, giờ Ngọ khai mở,
1194.-Sườn đau, tim thắt, rõ cơ viêm sườn.
1195.-Ẩn trong diệu lý liệu lường,
1196.-Tình chồng nghĩa vợ, phải thương tận cùng.
1197.-Ngón giữa ngừa chống phong ung,
1198.-Nơi đường kinh vị, tử cung Lệ Đoài.
1199.-Cảm thương Hồ Hải ngọn roi,
1200.-Bình Định xứ nẫu, ai hoài mở mang.
1201.-Quang Trung xua đuổi ngoại bang,
1202.-Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, chung đàng sử xanh.
1203.-Huyệt vị đồ họa như tranh,
1204.-Lâu lâu chàng mở, xem nhanh ẩn lòng.
1205.-Cạnh móng ngón cái chân trong,
1206.-Mênh mang cách nhịp, sóng lòng tim rung.
1207.-Nhủ lòng gìn giữ thủy chung,
1208.-An thần, hạ hỏa, não nùng xua tan !
1209.-Tử cung lạnh, nóng nhiệt hàn,
1210.-Đại Đô ngón cái, tim nàng yếu đau.
1211.-Tình đau lòng dạ rối nhàu,
1212.-Biến thiên hóa giải, nhiệm màu thậm thâm.
1213.-Bên ngoài chân út Chí Âm,
1214.-Trị ngứa khắp mình, khen thầm sanh dễ !
1215.-Hôn chân thành thật đê mê,
1216.-Diệu dụng tâm lý, Giải Khê khôn tầm.
1217.-Giờ Mùi phong thấp dụng châm,
1218.-Thiếu Xung khai mở: kinh tâm tĩnh huyệt.
1219.-Móng trong tay út thân nhiệt,
1220.-An thần, giải nóng, mát huyết, lể châm !
1221.-Ngày Đinh, giờ Dậu, không nhầm,
1222.-Năm giờ đến bảy, chân ngâm tọa quỳ. 
1223.-Đại Đô kinh Tỳ huyệt vị,
1224.-Lại thêm giờ Hợi, thuận tùy Tâm khai.
1225.-Thần Môn, du Thổ phục lai,
1226.-Mạch loạn ngưng nhịp, hoãn tai nạn liền !
1227.-Chín giờ kinh tụng an thuyên,
1228.-Âm thanh trầm bỗng, thiện duyên hài hòa.
1229.-Gót son chăm sóc như hoa,
1230.-Khí hòa huyết đủ, rạng tỏa hồng hoang.
1231.-Công, dung, ngôn, hạnh vẹn toàn,
1232.-Ra người thục nữ, hiền ngoan yêu chồng.
1233.-Nhiên hương hữu xạ thơm nồng,
1234*.-Sống đời thực tại, chớ lồng: CHIÊM BAO."
1235.-Lời mẹ căn dặn ngọt ngào,
1236.-Bao điều ngừa tránh, nhiễm vào thân tâm:
1237.-"Tránh thân nhiễm thấp không lầm,
1238.-Nằm giường cách đất, ngụ ngầm cách ly !"
1239.-Thương nhau nhớ chữ duyên thì,
1240.-Tránh ngày mùng một, oai nghi tựu thành:
1241.-“ẨN lời ân ái thiện thanh, 
1242.-BẠCH màu trinh trắng, huyệt cạnh móng chân.
1243.-NGÓN tay đo nước trong "ngần",
1244.-CHÂN nhân tình nghĩa, ân nhân giúp mình.
1245.-CÁI đèn dầu tỏ nghĩa minh,
1246.-Phát quang tỏa sáng, nghĩa tình thực tế.
1247.-Nồi cơm gạo nấu khét khê,
1248.-Lửa hâm đốt nóng, ủ ê xác phàm.
1249.-Dung hòa biết đủ không tham,
1250.-Không ham dục ái, nhẫn kham nhẫn nhường.
1251.-Hậu Khê mộc huyệt tiểu trường,
1252.-Thông với Đốc mạch, Thái Dương Thủ mạch.
1253.-Giữ gìn thân tâm trong sạch,
1254.-Ngón tay út huyệt THIẾU TRẠCH phía ngoài.
1255.-Nở tim, thiếu sữa, bất toại,
1256.-Bán thân bị liệt, ai hoài cổ đau.
1257.-Châm huyệt Thiếu Trạch ra máu,
1258.-Cổ hết đau nhức, nhiệm màu mắt mây.
1259.-Nhiệt cao, sáu dương kinh nầy,
1260.-Vận chuyển tiếp nối, hiệp vầy kinh Tâm.
1261.-Thần kinh mất trí nhớ châm,
1262.-HẬU KHÊ, Đại Chùy diệu thâm CƯU VĨ.
1263.-Giang Sử, Phong Long huyệt vị,
1264.-Nhớ bấm BÁCH HỘI; độc khí mạch phù.
1265.-Điên khùng Hậu Khê làm chủ,
1266.-Phổi viêm, cảm mạo, chu du đến THẬN.
1267.-Nội tạng cường tráng an thân,
1268.-Tai điếc, mắt mây, chỉ ''ngần" một tấc:
1269.-"Mắc giữa ngón giữa lóng thật,
1270.-Nam tả nữ hữu, rằng rất hiệu nghiệm !" 
1271.-Đọc thơ không hỏi lặng im,
1772.-Không giao khí huyết, không chiêm nghiệm nào ?
1273.-"Lóng thật" bệnh nhân chớ sao !
1274.-Lấy huyệt làm chuẩn, cách vào cách ra.
1275.-Trong ngoài trên dưới vậy a !
1276.-Khôn tầm chuẩn vị, suy ra tột cùng...
1277.-Lương y từ mẫu bao dung,
1278.-Chuyên môn thực nghiệm, nhớ dùng: DỤNG CHÂM.
1279.-Hư bổ, thực tả suy tầm,
1280.-Thái Tố mạch pháp, kẻo nhầm khôn suy.
1281.-Mạch nhảy sao gọi trầm trì,
1282.-Phải so mạch chuẩn, mạch đi thế nào ?
1283.-Một tức hơi thở ra vào,
1284.-Mạch đi sáu tấc, dạt dào Nhân Nghinh.
1285.-Thốn Khẩu giáp vòng huyệt kinh,
1286.-Thủ Thái Âm phế, bệnh tình xét suy...
1287.-Thốn, Quan, Xích vận sáu thì,
1288.-Xem từng cung bộ, huyền vi Ngũ Hành.
1289.-Tuần hoàn tả hữu, tương sanh,
1290.-Giải trừ tương khắc, nhanh nhanh cứu người !
1291.-Nữ thuận đồng hồ bổ tươi,
1292.-Xoay ngược đồng hồ, thực thời xoay tả.
1293.-Nam ngược với nữ nhớ nha,
1294.-Tả là tay trái, hữu là tay phải.
1295.-Đem dư bù thiếu gái trai,
1296.-Huyệt vị tên gọi, miệt mài ôn nhớ:
1297.-Ngày Nhâm, giờ Ngọ huyệt mở,
1298.-Hậu Khê, Kinh Cốt huyệt ở bàng quang.
1299.-Thủy vào làng hỏa đôi đàng,
1300.-Phục nguyên đắc khí, ngập tràn Tam Tiêu.
1301.-Dương Trì viêm khớp đau nhiều,
1302.-Không đốt ! Thai nghén nâng niu, ụa mửa !
1303.-Phối hợp Trung Uyển chỉnh sửa,
1304.-Tử cung co lệch, nằm ngửa đốt nung.
1305.-Nây đau Ngoại Quan hữu dụng,
1306.-Tay khớp viêm tê, phối cùng Hiệp Cốc.
1307.-Dương Trì tiểu trường khô khốc,
1308.-Hấp thu chất bổ; Mạch đốc MẠNG MÔN
1309.-"Tả hỏa xương nóng dại khôn,
1310.-Thận khí không đủ, bảo tồn giao lưu.
1311.-Bồi bổ bổn nguyên, thành tựu, 
1312.-Mười hai kinh hội, bổ cứu khí nguyên.
1313.-Tinh môn đóng mở lưu truyền,
1314.-Tinh khôi dịch chảy, vận chuyền nhân thân !
1315.-Thượng điền tích thủy hạ nhân,
1316.-Đúng là Cưu Vĩ, lấn phần dư chua.
1317.-Dịch vị TRUNG UYỂN kêu khua,
1318.-Đau tim chín loại, bốn mùa hàn tả.
1319.-Thượng tiêu uất nhiệt rên la,
1320.-Tả huyệt HỢP CỐC, vậy mà Thủy Phân !
1321.-Hạ tiêu hư hàn ân cần,
1322.-Bổ huyệt Khí Hải, địa nhân cân hòa.
1323.-Trung Uyển hội phủ ngự tọa,
1324.-Hạ Quan, Công Tôn, hạ hỏa đau tim.
1325.-THƯỢNG UYỂN bụng trướng nhớ tìm,
1326.-Uyển thay chữ Quản, suy nghiệm một tên !
1327.-Thượng điền tích thủy sao nên,
1328.-Hạ điền khô hạn, lênh đênh tâm hồn !
1329.-Âm Giao phận nữ cung  khôn,
1330.-Rong kinh, băng huyết, bôn đồn thốn đau.
1331.-Trăng chiều mùng bốn khuyết màu,
1332.-Mùa thu tháng tám, vàng thau rạng ngời.
1333.-NGẬM ngùi khổ tận ai ơi,
1334.-NHANH nhanh thay đổi, vọng lời tụng kinh !
1335.-Âm trầm âm bỗng vô thinh,
1336.-Du dương nhạc chú, tội tình tiêu tan.
1337.-Đại Bi vô thượng vô nan,
1338.-Hư vô hiển hóa, vô vàn đổi thay.
1339.-Vận đời hết rủi đến may,
1340.-Kính tôn thờ phượng, xem ngày thực trai:
1341.-"Ba mươi, mùng một, mùng hai,
1342.-Ngày rằm, mười bốn, thiện tài ăn chay.
1343.-Thiện tai tưởng niệm lành thay !
1344.-Chầm chậm nhè nhẹ, cuối lạy chân thân.
1345.-Tấm thân còn lụy hồng trần,
1346.-Ngậm ngùi Ẩn Bạch, bâng khuâng lưỡi trần ! ”
1347.-Ngọc Tuyền hóa hiện nghĩa nhân,
1348.-Dũng Tuyền suối nhẹ, lâng lâng nhấn tìm.
1349.-DỤNG thêm Chiếu Hải uy nghiêm, 
1350.-CHÂM không bằng bấm, phải tìm nơi nao ?
1351.-CHỚ nên thất hứa duyên trao,
1352.-LẤY rồi ly dị, khác nào người dưng !
1353.-NGỌC ngà ơi hỡi vô chừng,
1354.-HÀNH hà thể xác, mấy từng mây cao !
1355.-MÀ sao bỗng đổ nghiêng chao,
1356.-CHÂM ngôn thất hứa, ngọt ngào đắng cay !
1357.-TÀ dương lòng dạ đổi thay,
1358.-ĐẠO nơi tình nghĩa, trắng tay hỡi đời !
1359.-Thế sự vật đổi sao dời,
1360.-Tâm người toan tính, vọng khơi ngụ ngầm.
1361.-Dụng y nghệ thuật dụng châm,
1362.-Não bộ hóa giải, uyên thâm dịu huyền.
1363.-Nhưng mà phải nhớ lời khuyên: 
1364.-“Nhằm ngày cấm kỵ, phải kiên Nhân Thần.
1365.-Mỗi ngày âm, huyệt nhân thân,
1366.-Mùng năm, mười bốn, tránh gần hai tám.
1367.-Ai ơi ! hãy nhớ không ham,
1368.-Hăm ba huyệt vị, chớ tham Dũng Tuyền.
1369.-Lòng bàn chân giữa ngự yên,
1370.-Đi buôn cũng lỗ, dóng thuyền đi chơi !”
1371.-Ai không thâm nhiễm bịnh đời,
1372.-Sống nghèo thanh bạch, rạng ngời nhân thiên.
1373.-Ăn được ngủ được là tiên,
1374.-Không ăn không ngủ là tiền mất đi !
1375.-Vi nhân thông tứ huyệt suy,
1376.-Thông Thiên tứ huyệt, nghiệm trì tham thấu.
1377.-Án ngự Bách Hội quanh đầu,
1378.-Lửa thân xông thấu, gió hầu vòng xoay !
1379.-Gió vòng gió xoáy loay hoay,
1380.-Giấy tờ mỏng nhẹ, tung bay khắp phòng.
1381.-Ấn chứng Thiền Định khó mong,
1382.-Cửa phòng khép rít, rõ trông mở liền.
1383.-Thân chứng thực tại vô phiền,
1384.-Tâm an giấc ngủ, như tiên khác nào !
1385.-Hồn bay phách lạc nơi nao,
1386.-Gom thần nhập định, dạt dào niềm vui.
1387.-Hôm nay còn nhớ ngậm ngùi,
1388.-Đoái thương xót tưởng, dập vùi đời hoa !
1389.-Thương đau rồi cũng nhạt nhòa,
1390.-Tham thấu thiền đạo, ngời tỏa tâm chơn.
1391.-Ngũ Lôi ấn chưởng gió vờn,
1392.-Khai thông xuyên suốt, nguồn cơn Dũng Tuyền.
1393.-Hạ Hồng nhật ký Uyên Nguyên,
1394.-Mười tám tháng năm, Hải Uyên tình ái.
1395.-Chạy trốn cô đơn thực tại,
1396.-Giận nhau kỷ niệm, tê tái đau thương.
1397.-Nhạc lòng cung điệu tình trường,
1398.-Vấn vương câu hỏi, yêu đương dỗi hờn.
1399.-“Minh tâm kiến tánh là hơn, 
1400.-Nếu sân, si, hận, giận hờn: Tôn Nghiêm !”


Link: 3.600 câu thơ lục-bát (tt.1); 3,600 six-eighth verses(cont.1) 

243 Language Selector: Thanh Chọn 243 Ngôn Ngữ: