Thứ Tư, 28 tháng 8, 2024

I practice acupuncture! (cont.4); Tôi thực hành châm cứu ! (tt.4)

 ____ Huyệt vị đầu tiên mà tôi châm cứu, là huyệt Chiếu Hải. Nó nằm ngay dưới mắt cá trong, khoảng 1 cm. Tất nhiên phải xem trong bảng Bát Pháp Huyệt Vị, xem nó mở giờ nào. Và châm bổ có hai khái niệm: Nghinh, tức mũi kim ngược dòng kinh chạy của kinh Thận, là tả ! Mà xuôi theo chiều của đường kinh chạy là "Tuỳ" gọi là bổ. Nếu là nam nhân thì xoay theo chiều dương, tức ngược chiều kim đồng hồ chạy là "bổ", xoay kim ngược lại là "tả" . Và châm cho quý bà, quý cô thì ngược lại với các ông ! Châm bổ nó có tác dụng mạnh Thận, giải mỏi 4 tay chân. Thật ra, lý luận Đông Y cho hay rằng. Tám đường kinh của Bát Mạch, là tám kho chứa khí và huyết, mở chạy cho nó quân bình. Đem chỗ dư mà bù vào chỗ thiếu. Nên bệnh nhân có ngay sự hiệu nghiệm ! Có những con bệnh, hết đau ngay tại chỗ sau khi châm. Cụ thể như : một cô lớn tuổi, là dân lao động, mà bàn tay "cầm nắm" là đau nhói, từ bàn tay chạy đến cơ tay đến tận khuỷ tay. Dùng kim châm cứu, chích Lễ ngay huyệt Trung Chữ, nơi ngón giữa, nặn máu tha cồn sát trùng. Nắm cánh tay bấm huyệt vị Khúc Trì, một tay đan vào 4 kẽ tay của bịnh nhân kéo dãn ra. Bấm huyệt ? Hậu Khê...Xong bảo làm lại động tác "cầm nắm" . Cô ngạc nhiên "hết đau" ; May quá ! nếu không con phải dùng lá cây: Đại Tướng Quân, giã với Lá Lốt, với vài trái "Mướp đắng-Trái khổ qua đắng" ; lá khế, lá sầu đông, lá ổ tàu....mà bó tay cho cô. Ngón tay giữa con, bị nhiễm trùng làm ung nhọt độc, nhức đau, phải đắp lá rau lang, chín mùi, ngậm rượu,...lấy miệng hút, nhả ra, nó không đau, êm dịu...Ngậm rượu sát trùng miệng ! Hôm sau, cô nấu củ khoai lang và khoai mì, miền bắc gọi là "sắn". Gọi là tạ ơn ! Ok . Nầy con Cô hơi bị chứng "mất ngủ" con à ! Cô rang mè đen ăn nhiều vào, uống chút trà nóng rồi ngủ ! (9 loại mất ngủ, 9 loại đau lưng, 9 loại đau bụng...giống "giả đò" ?

_ Huyệt vị Thương Khâu, kinh tỳ, sách châm cứu đại thành 2, nói "mụt độc mọc trong xương" ? Sao không dịch ra là "gai cột sống"....vì ngày xưa, chưa tỏ rõ như Tây Y ngày nay. Châm nó, nhéo nơi đó, đau la làng. Bó gừng, mua cuộn băng, có móc...hết ! Trò bị "chèn dây thần kinh" bịnh nầy mới thiệt là "giả đau" ?!? 
_ Vậy, bạn có bao giờ bị "đau răng" chưa...huyệt nào ? Ngày xưa mẹ tôi mách rằng: Ba mầy bị long chưng răng, chíp miệng, khạt ra máu. Ông Thầy nói, anh lấy cái đinh, nướng đỏ, nhúng vào ly rượu, uống nó, súc miệng, nhả ra...nó trị răng nhức, lỏng chân răng, răng bị "xiết" ăn đen răng . OK...làm nghe nói mà "không làm" sao biết là nó "hiệu nghiệm" trời ! 
_ Mẹ cứ nghe tôi nói về cây lá "sống đời" trị say rượu, nhưng thật ra, nó hoá giải chất độc nhanh, nên mau hết say. Một em bà con nó "giận" chồng nó sao đó, lỡ dại uống 1, 2 muổng thuốc trừ sâu. Bà đâm lá sống đời, hoà nước lạnh, lược nước bắt uống đến cành hông...May quá, nó mửa , nôn thốc, nôn tháo ra. Xa bệnh viện, chở đi "súc ruột" là chết dọc đường. Sau khi mửa xong, nó cười...chắc khỏi...súc ruột, con sợ mệt lắm ! 
Note, ghi chú: thuốc mà đã ngâm với rượu, là nó hoà tan thuốc bắc, thuốc nam, đúng liều lượng mà đã ngâm, là thành thuốc. Ai bảo tiếc thuốc, mà đổ thêm rượu vào là uống rượu có hại ! Rượu dẫn thuốc ngay vào máu ! 
Cách châm: Nếu mình không châm cho chính mình. Thì sao biết là nó "tê" rần, nóng, rát, đau, nhứt...thấu ruột gan ! Vậy, ngoài Chiếu Hải, Dũng Tuyền, và Khúc Trì thì châm nóng mũi chim châm, tức là bật quẹt ga, hơ nóng mũi kim châm.... châm giải mỏi gây sự hưng phấn. Còn "bí quyết" huyệt nào gây "phê" nhè nhẹ, lâng lâng và cực kỳ "sảng khoái" ...vậy ta ?!? Vậy, huyệt vị nào mà "đau nhứt" châm nhanh, cho ra tí máu...thoa cồn sát trùng ngay. Chớ bày...châm nhẹ nhẹ, chờ đắc khí,  rồi xoay kim, ơi "thấu ruột gan" nhớ ! ):( Okay đáp : Huyệt Vị "Phục Lưu" kinh thận là "huyệt mẹ" bổ mẹ và tả con ? Châm nhẹ , chờ đắc khí, kéo kim ra, rít kim, thành hạt đậu phộng nhỏ, xoay bổ...lọc máu, thanh trọc khí, giúp trái tim lọc máu đen thành máu đỏ. Hết ngăn nghẹt, buồng khí thở...và phê, chạy rần...lâng lâng, buồn ngủ. Chúc Ngủ Ngon ! Good Night ! 
a) Kỹ thuật châm huyệt Chiếu Hải, bước một tra giờ ? Ứng theo ngày ? Lật tờ lịch ra ...xem bảng tra ? Mới châm, hay nhác tay châm, châm cạn...mà lo ! Nếu xảy ra "vựng châm" tức, hồi họp, tháo mồ hôi, choáng váng....bình tĩnh...cho con bịnh an nghỉ, uống tách trà nóng. Châm Nội Quan, Bấm Túc Tam Lý, tăng lực ! Vậy, góc châm 90 độ, không "bổ" cũng chẳng "tả" tự nó hướng mũi kim nơi nào ta cầm nắm nó mà xoay, bổ hay tả hay bình châm, không bổ mà chẳng tả...rút kim ra. Vì nó "dính chặt" kéo mạnh ra...nó "bung máu" là hỏng...Rút lui kim, sau khi lưu kim...hết sợ ! Thậm chí lấy ngón tay trỏ "bịt lỗ châm" thoa cồn sát trùng ! Ok ..hay ! Con bệnh đã tới giờ "hấp hối"...vì quá "muộn màng"...mắt trợn tròng trắng....Bạn hãy châm cứu Hồi Dương...nơi huyệt Nội Quan. Nước mắt chảy ra, mắt hết trợn...im lìm đi vào cái chết...mạch hết đập...tay rơi...buông thỏng. Lấy tay, vuốt mắt...nằm như ngủ ! Ok Kim châm cứu nơi Huyệt Nội Quan, lỏng kim...tự rơi ra...Miệng niệm thầm Nam mô A Di Đà Phật ! Thật ra, có chín huyệt "hồi dương" ứng liền với "cửu khiếu" chín lỗ thông lưu, nội, ngoại...mà huyệt là "nấm mộ" chôn thân. Mô Phật ! 
_ Bế tiểu, hoặc tuột tiểu, ngủ là "đái dầm"...tiểu hồi nào không hay biết ? Hay bị đi tiểu đêm nhiều lần
_ Bế đại tiện, bón, mót rặn không ra ?
_ Bế mồ hôi, chẳng phát hãn và mồ hôi đổ nhiều quá ! Sao ta ?
_ Mồ hôi trộm ra hoài...Phục Lưu...hết ra mồ hôi trộm, mạch vi tế, không còn thấy mạch, sẽ có lại. Của bịnh "tiểu đường" mà nhiều nhà châm cứu, từng cảnh báo hết cứu chữa ! ):( Mô Phật ! Chúng tôi "thực hành khảo sát" không một mảnh bằng. Ai giới thiệu với bà vợ của Nha sĩ Lê Hiếu An, người mà năm xưa, đã từng "nhổ răng" cho tôi tại bịnh viện quân y, trước năm 1975. Thầy thuốc bắc Nguyễn Cự, đã bó tay, lắc đầu, bịnh tiểu đường mạch vi tế, bắt mạch không thấy ? Thân mình thì "mồ hôi trộm" ra từng hạt lớn như cái tủ lạnh ! Anh em chúng tôi lúc bấy giờ thường theo Án Pháp của Dương Thị, nằm trong quyển 1 của Châm Cứu Đại Thành, sau mục Bát Mạch...sau bảng liệt kê như các bảng trên là Án Pháp của Dương Thị , là trích trong đó ra. Sau khi bà xét nghiệm hết "lượng đường" trong máu. Chúng tôi, ngưng làm ! 
b) Tự mình châm cứu kỹ huyệt Nội Quan, cạn, sâu dần...gọi là châm : Thiên, Địa, Nhân...đễ tăng nội lực. Nhớ đắc khí, rít kim, khí hội tụ, kéo kim lên như "hột đậu phụng" xoay...kim...bao nhiêu lần 9 tả.....6 bổ...bổ bao nhiêu tuỳ thích !
c ) Điều kiện nơi phòng châm, thoáng mát, không có gió lùa. Lúc bạn không ăn quá no, hoặc là đã quá bị đói, đang mệt...thì bấm Tăng Lực, xoa dầu xanh con ó. Cứu huyệt...Ngày nay, nơi Phương Tây họ đã khảo cứu, rất hiệu nghiệm hơn Phương Đông, nơi đã sản sinh ra Đông Y Châm Cứu, vì họ làm ra máy châm, máy massage...ghế mas-xa, một cách chính xác, bồn tắm mát-xa đắc giá...v.v...tắm xông hơi...bấm huyệt ! Vậy Diện Châm, châm nơi mặt thì sao ? Nhĩ Châm, châm nơi tai thì sao ? ):( Hình đồ Huyệt Vị, họ bán có phần Diện Châm & Nhĩ Châm, in lớn , giá 40.000VNĐ, nơi nhà sách Fahasa, siêu thị). Nó vi tế, huyệt vị và kim châm tí xíu, bạn lấy móng tay...bấm nhẹ mà đạt "hiệu quả lớn". Thầy Thích Giác Tịnh, thường ngủ "gối đầu" ép tai vào thành ghế dài mà ngủ, nghỉ. Anh em chúng tôi, hiểu là Thầy, đang tự "giải huyệt" cho chính Thầy. Mô Phật ! Nhớ huyệt "Giao Cảm" nơi xoa dịu, hệ thần kinh cho hệ não...mà Huyệt Hợp Cốc là thư giãn thần kinh não bộ ! Tác giả : Thượng Trúc biên soạn sách : Châm Cứu Học Toàn Khoa, Trị Liệu Thần Kinh Học, Y ÁN CHÂM CỨU THỰC NGHIỆM, là nơi mà tôi đã kết hợp hai bảng liệt kê, thành ra bảng Y HỌC CĂN BẢN !
Nạn Kinh Tố Vấn (81 nạn)
Trích: Hồng huyết cầu quá nhiều ?
"Những người hồng huyết cầu nhiều quá, thường phát chứng "nhức đầu và xây xẩm". Bên đầu đau lại kèm , chỗ bụng(tạng tỳ) bên trái đau, mặt mũi đỏ, huyết tan căng trướng nên chảy máu cam (đàn bà khi có kinh nguyệt thì phát), lấy máu xét nghiệm : hồng cầu lên đến trên 14.000 vạn. Dễ bị "bức mạch máu não" gọi là "xuất huyết não" chết ngay. Châm cứu: Đại Chuỳ, Thân trụ, Tỳ Du, Can Du, Vị Du, Thái Dương, Khúc Trạch, Xích Trạch, Uỷ Trung, Nhân Trung, Kiên Tỉnh. Châm các huyệt Uỷ Trung, Khúc Trạch, Thái Dương, Hiệp Cốc đều ra máu. Các huyệt khác dùng tả pháp, trị thời gian lâu có công hiệu. Ngăn ngừa chuyển thành "áp huyết cao". 
Trích : Nguyên văn gọi là "não tích tuỷ", bần huyết, tây y gọi là "rối loạn tiền đình" xây xẩm, cần phải cấp cứu...mắt kém, ưa nằm, ngủ mê, khi đứng dậy mắt tối đen, dễ té ngã...cẩn thận ! Chủ trị: Thiên Trụ, Uyển Cốt, Phong Trì, Kiên Trung Du, Kiên Ngoại Du, Kiên Tỉnh, Kỳ Môn, Tam Lý*, Hiệp Cốc, Đại Đôn, Lệ Đoài, Nội Đình, Phong Long, Thượng Tinh, Bách hội*, Trung Uyển, Giải Khê, Thuỷ Cấu." Sao không châm Phục Lưu ? Tuyệt Cốt trị "não thư" ! Là Huyệt Hội của tỷ...tất cả bịnh về não, phải là "Tuyệt Cốt" ! 
d) Lúc gặp phải bệnh "uốn ván" con bịnh, nẫy người, kêu la, lăn lộn....bạn tìm con vòi nơi cầu tiêu, đốt cháy thành than cho uống...chua lắm...sao có ? Thôi thì, bắt đại 2 con thằn lằn trắng, con đực và con cái thường "quấn quýt nhau" đâm nát với 3, 4 lát gừng lược nước cho uống. Các phương thang nầy, có ghi rõ trong sách "Thần Phương Diệu Dược" do Hội Đông Y Học toàn quốc in ấn, Phương Thang, từng có hiệu nghiệm của các Thầy Thuốc cả nước đóng góp. Chúng tôi đã từng biết áp dụng "một cách thành công" Con bịnh hết ngay, sau 3 ngày....mà bịnh viện đã trả bịnh, sau 2 tháng, trị không hết. Bó cơ năng, đụng nhẹ vào người, thì con bịnh, cảm giác như bị ai đang "bức bách" đánh đập mình vậy ?!? Huyệt vị "Phong Phủ" có công năng, giải khai cơ năng bị bó...còn lại áp dung Bát Pháp mà châm cứu. Châm, Lệ đoài, Nội đình, ra tí máu. Thấy máu là con bịnh sẽ cảm thấy "bụng đói" muốn ăn...vì lâu ngày, không ăn gì ? Nguyên lý: là lửa nóng hội tụ, bao tử, nóng xót, muốn ăn, thèm ăn....ngay..."ước gì, tôi ăn ba nồi cơm" ; (lửa trong người có hai loại "tà hoả và chánh hoả")...cho đã...từ từ ăn cháo..nhẹ tiêu...cơm ăn sau ...Tắm rửa...kỳ cọ...nước ấm...Tắm là một diệu thuật của "bấm huyệt"...Nếu điều kiện cho phép...bạn chỉ dùng thuật bấm huyệt: bấm, vuốt, mằn, xoa, ấn, nhấn, xoay,...bàn tay bạn phải biết cách sử dụng, nó diệu dụng, bởi có mô cơ, có 10 ngón nghề...chỉ từ đầu gối xuống chân, và từ bàn tay đến khuỷ tay....Bấm vai, lưng, bấm toàn thân thì người chồng làm thay bạn !!!...cho "học nghề nhập môn" ! 
Hậu Khê: thấy có mồ hôi trộm là châm ? Nóng là châm, bấm ngón tay út giải nhiệt huyệt ?...Bấm hai biệt huyệt ngay trên Mi Xung là giữa hai mày châu lại giáp nhau, cách 1 cm nơi mé tóc, kéo ngón tay xước lên, như lược "chải đầu", làm phát hãn, hạ nhiệt cơ thể !
***
Chuyên Khoa Thần kinh
I. Thập Tam Châm (13 quỹ huyệt, rất hiệu nghiệm)
của Tôn Chân Nhân
Note: 1 tấc châm cứu=1 thốn=lóng giữa của ngón tay giữa của bịnh nhân
1 tấc = 10 phân
+-> Biệt Huyệt Trung Khôi (còn gọi là Trung Bình), "làm chuẩn": tại giữa lằn chỉ thứ 2 ngón tay giữa;  -> Điều trị hôn mê  ;(->Thần khuyết là huyệt ngay rún, rốn)
Trích nguyên văn trang 281-282
Một châm Nhân Trung (Quỹ Cung) bên trái châm kim bên phải rút kim.
Hai là dưới móng ngón tay cái: Quỹ Tín châm sâu 3 phân.
Ba châm dưới móng ngón chân cái: Quỹ Luỹ sâu 2 phân.
Bốn châm huyệt Đại Lăng trên lòng bàn tay: Quỹ tâm, sâu 5 phân.
Năm châm Thân Mạch: Quỹ Lộ, hoả châm 3 phân, 7 mồi lửa.
Sáu trên huyệt Đại Chuỳ sâu vào tóc 1 thốn : Quỹ chẩm.
Bảy châm dưới Nhĩ Thuỳ 8 phân: Quỹ sang phải ôn châm.
Tám châm Thừa Tương: Quỹ Thị, cần nhớ vào trái ra phải.
Chín châm Lao Cung : Quỹ quật, nơi lòng bàn tay.
Mười châm Thượng Tinh: Quỹ đường
Mười một khe dưới âm bộ cứu 3 mồi, nữ tức: Ngọc môn đầu: Quỹ tàng.
Mười hai Khúc Trì: Quỹ thoái, hoả châm vẫn phải 7 mồi lửa.
Mười ba dưới đầu lưỡi: Quỹ phong.
Hai bên chân tay châm đối nhau, nếu gặp đơn huyệt chỉ châm một thôi. Đây là bài kệ hay của tiên sư, ác quỹ điên cuồng chạy mất tích.
1. Châm Quỹ cung, tức Nhân Trung, sâu 3 phân.
2. Châm Quỹ tín, tức Thiếu Thương, sâu 3 phân.
3. Châm Quỹ luỹ, tức Ẩn Bạch, sâu 2 phân.
4. Châm Quỹ tâm, tức Đại Lăng, sâu 5 phân.
5. Châm Quỹ lộ, tức Thân Mạch (kim to), sâu 3 phân.
6. Châm Quỹ chẩm, tức Phong Phủ, sâu 2 phân.
7. Chân Quỹ sàng, tức Giáp Xa, sâu 5 phân.
8. Châm Quỹ thị, tức Thừa Tương, sâu sâu 3 phân.
9. Châm Quỹ quật, tức Lao Cung, sâu 2 phân.
10. Châm Quỹ đường, tức Thượng Tinh, sâu 2 phân.
11. Châm Quỹ tàng, nam tức Hội Âm* ; nữ tức Ngọc Môn đầu*, sâu 3 phân. Note: (nam châm nam, nữ châm nữ)...ok !
12. Châm Quỹ thoát, tức Khúc Trì (hoả châm), sâu 5 phân.
13. Châm Quỹ phong, tại khe dưới lưỡi, châm ra máu, vẫn ngang châm 1 mũi, để hai môi ngậm lại khiến lưỡi bất động, phép nầy rất hiệu quả. Lại châm Giản Sử, Hậu Khê 2 huyệt càng hay.
Đàn ông trước châm từ trái ; đàn bà trước châm từ phải. Ngày lẻ là ngày dương, ngày chẵn là ngày âm. Ngày dương giờ dương châm về phải; ngày âm giờ âm châm về trái. Tóm lại : phải biết giờ, chú ý....châm trật giờ không hiệu nghiệm sinh "nghi ngờ " ! "