Thứ Tư, 1 tháng 6, 2022

Tôi thực hành châm cứu ! (tt.1) ; I practice acupuncture! (cont.1)

 Vật thực nào cũng dơ bẩn cả, chỉ có cái "bình bát" của các Thầy Tu là miếng ăn trong sạch hoàn toàn. Cơm sớt từ Bát của Sư Thầy, chúng tôi ăn mà phát thèm, nó nhanh tiêu hoá, nhẹ nhàng, như thuốc tiên ! Sau khi ăn nó dẫn khí, dẫn huyết chạy. Thay vì ngồi thiền, chờ dẫn khí huyết lâu...mất thời gian ! Cái chăn y của Sư Thầy, cái nào Thầy thay cái mới, cái cũ mấy cô tại gia, giành nhau, may mặc thành cái yếm ! Như mặc cái áo "giáp" ở bên trong, quý hoá vô cùng ! Và cái khăn lau của Thầy dùng, nó đen thui, thật ra là, Thầy đã tẩm thuốc sát trùng Đông Y, mà thuốc ấy vừa lại uống trừ chướng hơi ! Nghe kể rằng: ngày mà Ni Sư Ái Liên, con của nhà sách Đại Chúng bệnh. Thầy cho mượn tấm chăn khoát ngoài đắp, sáng ngày "hết bịnh" từ ấy Cô thấy sự màu nhiệm mà xuất gia ?!? Năm đó Thầy nói học trò ghé lại tiệm thuốc Bắc, Thầy đưa toa hốt 4 vị thuốc, Thầy cho 1 thang, về ngâm 1 lít rượu ngon. Cái khăn lau của học trò, mà đã tẩm thuốc sát trùng đó, đã dùng lâu, nên hơi khúc mắc. Đem khăn ấy giặt xà phòng rửa chén, nó trắng hơn, khi khô rồi nó "cứng ngắt". Trước khi sơn cửa, mua 4 tờ giấy nhám về chà, rồi sơn. Vô tình lau bụi, song cửa sổ, trước khi chà giấy nhám. Nó ra sơn, 1 cách nhẹ nhàng. Chà hết 2 song cửa sổ, mà 4 tờ giấy nhám còn nguyên chưa dùng. 

Toa thuốc : Sát Trùng (ngoài da)
Nếu đau bụng, chướng hơi, uống 1/3 ly rượu nhỏ của Việt Nam.
(1) Bông sàn 5 chỉ
(2) Phèn chua 4 chỉ
(3) Ngũ bội tử 4 chỉ
(4) Phèn xanh 3 chỉ
(5) Tam tiên (cầm máu) 5 chỉ
(6) Mã tiền (sống) 5 chỉ
(7) Son tàu (lành thẹo) 
Cách ngâm thành rượu thuốc sát trùng: cứ 2 thang thuốc như trên, ngâm với 1/2 lít rượu trắng.

Note: Mẹo ngồi thiền ! Lúc nghe Thầy hỏi, đa số đều nói...dạ con thấy "khoẻ", dạ con thấy "lửa"...vv...mà thực ra là : Ngồi chừng 2 giờ đồng hồ, thì thông thoáng và vui mừng "mắc tiểu" lập tức, xả thiền...bái lạy...đi xong ngồi tiếp...Mới là ok ! nếu đau chân, mỏi mệt...xả...đứng lên chậm rãi, ra rửa mặt cho tỉnh táo vào ngồi tiếp. Chớ bày cố ép, đau chân mỏi mông, rán ngồi...mà nói khoẻ là sao ta ? Ngồi thẳng lưng lên, hơi chồm tới trước....cuối gập người, lạy...hay hai tay "bắt ấn Liên Hoa" kéo rê bình bát vào, ngồi ăn thoải mái ! Tự nhiên và giữ tư thế, im ru "không nhúc nhích" ngồi như là "pho tượng" ! (hết):( Gặp hiện tượng thường có là "cơ thể ấm dần"...nếu là trên nền xi-măng....thì quanh chỗ ngồi có hơi nước đọng là tốt ! (hết ):(...hoặc ngồi lâu có luồng gió mát, như con gió xoáy...mát đầu, càng tốt hơn , nhưng hiếm gặp, gió bung cửa vào phòng...nơi đang toạ thiền.v.v... (hết ! ):(ngoài ra, lúc ngang qua nơi thờ Thần Giữ Cửa, Long Thần Hộ Pháp, mấy ông thợ mộc cố ý, làm cửa khép, nhưng hơi nghiêng tạo lực theo "trọng lực" có người đi ngang qua, nền đất rung động nhẹ...cửa tự mở ra, nhìn vào phòng trống trơn, chỉ viết một chữ Hán-Việt, chữ "Thần-神 "  !  " Đừng sợ hãi ? Vì sao ? ; Cũng vậy, giống như kiến trúc thời xa xưa, phòng dẫn vào là một phòng đại sảnh, có các bức bình phong, có đồ chưng diện, nhưng bất ngờ là một cánh cửa bí mật...hơi lạ lùng, sau cánh cửa ấy là "phòng tiếp khách" có bộ ghế ngồi ! Nếu 1 mình bạn vào phòng, khó mà phát hiện ra cánh cửa nằm chỗ nào ? 

____ 
Hỏi; Ask: Ngồi thiền quá sức, và đi nhiều chân mỏi.; Sitting meditation is too much, and walking has a lot of tired legs.; Nửa đêm "chuột rút"...á...đau, cắn chặt răn uốn lưỡi...như lúc Thiền...; In the middle of the night "cramps"...ah...pain, biting and bending the tongue...like in meditation...; Bấm Link: +-> Tự điển Đông Y Học: huyệt Thừa Sơn...; Click Link: +-> Dictionary of Oriental Medicine: Thua Son...; Giữ im, nó tự hoá giải, càng cựa quậy càng đau!; Keep quiet, it resolves itself, the more you move, the more it hurts!; Huyệt vị ngay chính giữa "bắp chân"!; Acupressure right in the middle of the "calf"!; Nói về âm và dương cân hòa nhau: hết bệnh tật, khỏe mạnh, hết mệt mỏi.; Talking about yin and yang balance each other: get rid of sickness, be healthy, get rid of fatigue.;  Chức năng của Thừa Sơn là cân hòa âm và duơng (ngũ tạng và lục phủ. Bên trái và bên phải, bên trong và bên ngoài, bên dưới và trên); Thua Son's function is to balance the harmony of yin and yang (the five organs and the six organs. Left and right, inside and outside, below and above). ☑

_ Mùa hè năm đó, Sư Thầy cố ý nhấn mạnh và hỏi anh Bảy, sao cái cây nầy, tự nhiên nó khô, và chết cây ? Học trò, im lặng, hiểu ý Thầy, mới ghé mắt, nhìn qua, khu nhà bên cạnh, sát tường rào của Tịnh Xá. Là Khu nhà sản xuất đá lạnh và bia hơi. Thầy mở khoá tu, suốt 3 tháng mùa hè, vinh dự được Sư Thầy đốt cây hương trầm loại lớn cao 1 mét 2...thơm bát ngát. Mùa đông năm đó cây Bồ đề rụng lá toàn thân, và đâm chồi lộc mới, lá cây Bồ đề và lá non, chúng tôi quét dọn sạch. Các năm sau không thấy thay lá, như năm đó. Một hôm lên mạng, đọc tin tờ báo mạng ấy nói rằng : "Chỉ duy nhất cây bồ đề và 2 loại cây "dây nhện" và "lưỡi hổ", +-> ban đêm và ngày thải ra khí oxy, (nếu mất ngủ...mua cây về trị):( Hoa Thược Dược, mà đem vào phòng ngủ...là đồng nghĩa: "tự sát bằng hoa" .?. Thầy hay nói là "sinh khí". Các loại cây khác, ban đêm thải ra khí C02 , tức các-bô-níc khí tử !" ):( Thầy đọc Chân Lý, tăng dần thời gian...mãi từ sớm 1 giờ, tới 5 giờ 30...tiếng Tàu lửa chạy ngang Tịnh Xá, là cái máy loa của Thầy chập mạch...nó kêu rè rè...nghe êm tai ! Thầy hỏi lần lượt, ngồi nghe có Thấy gì không ? Mỗi người trả lời theo mỗi kiểu.

_ Riêng học trò Thầy không hỏi, nhìn vào mắt học trò,...mà nói to. Ngày xưa, lúc Thầy nghe Tổ sư Thuyết pháp, nghe tới đâu, thì trong đầu Thầy hiện ra cảnh vật, y chan như lời Tổ Thuyết..."có hai vị sư"....Thầy thấy trong đầu thầy hiện ra "hai vị sư" ....ừ ! 
_ Và thưa Thầy: sao nữa ạ ?
_ Lúc Tổ sư thuyết pháp, có một tốp người, mang súng đến, nhưng kết quả, họ hạ tay súng, ngồi nghe Tổ sư thuyết pháp.

Kim châm các loại có bán tại đường Bạch Đằng cửa hàng "Dụng cụ Y tế" , nơi công viên Bến xe khách ngày xưa, gần Công An Giao Thông.

(Còn cây ngãi cứu ghé chùa Linh Thứu, Trần Hưng Đạo, gần nhà máy đèn ngày xưa, họ chữa miễn phí ! xin về đốt hơ, nếu mua không có. Có loại tự làm, cắt gừng, lót mà đốt...OK):(thoa dầu đánh nóng...lấy cây nhang hơ huyệt...
):(Hỏi: ngồi thiền quá sức, đi nhiều chân mỏi , nửa đêm "chuột rút"...á...đau, cắn chặt răn uốn lưỡi...như lúc Thiền...Bấm Link: +-> huyệt Thừa Sơn...giữ im, nó tự hoá giải, càng cựa quậy càng đau ! Huyệt vị ngay chính giữa "bắp chân" ! Còn bị đau "thần kinh toạ" : Dũng Tuyền, Thừa Phò, dưới mông ngồi thiền nó cấn huyệt mau hết thần kinh toạ cốt ! Và dưới nhượng đầu gối, hai tay ôm bó đầu gối bấm Uỷ Trung...chích kim xoay tả cho ra chút huyết, sát trùng. ):nhớ lúc nhỏ, tôi chạy chơi, hái lưỡi long ăn, gai nhọn châm gãy vào chân lúc nào không hay, hôm sau và sau, nó ê đau, tự nó lòi ra dần, nhờ Papa lấy cái nhíp "rút nó ra"...ừ ! Hôm tắm eo gió ở Nhơn Lý, dẫm cầu gai đen biển, Cậu bảo, kiếm "bãi phân" người dẫm chân vào, vài phút, nó sẽ hết đau, vài hôm lòi ra ! ):(Kiến cắn em bé...phun nước miếng nó hết đau...; Ong chích...sao ta ? Lúc 1972 đi củi đài ra-đa Quy Nhơn, ngay trái tai, chỗ lỗ tai đeo bông, quên lững...mãi gần 20 năm sau, nó sưng...hột cứng, dần dần tự hết luôn...ừ ! Theo nhĩ châm nó là Huyệt Mắt ! Và sau vành loa tai là rãnh tai cào nó Hạ Huyết Áp Cao ! Rễ cây dây chìu bó củi trị đau lưng...hay lắm ! Mắc xương hôm cá...ho khạc hoài không ra, bấm +-> huyệt Gian Sử...xương quay dọc lại ho nó văng ra ! Nó trị "tâm thần phân liệt"
Trước khi nói về "bào chế" thuốc Đông, Nam chúng ta nên hiểu về "bào chế" thuốc Tây, như sau : sơ chế, trung chế, tinh chế là chiết xuất lấy chất thuốc trộn bột sắn dây, làm chất phụ gia, đúc, in ra thành viên ! Cụ thể như cây Hoàng Đằng, màu vàng làm thuốc Béc-be-rin của Bình Định, nơi bạn tôi làm kể lại, phải dùng acid để phân huỷ, cho qua bể chứa...Mỹ họ đưa người lên mặt trăng, làm ra thuốc đặc hiệu, làm trong môi trường trên đó, đưa về trái đất dùng ! Nhớ lúc hiểm nghèo tôi còn 16 viên, lén cho thằng Lập Vũ Bảo, 8 viên, giữ kín tám viên, ngày về, cho lại Đoan cận. Lúc ở Trại Cưỡng Bức Lao Động Sông Kôn. Thuốc trị kiết lỵ  Becberin !
***
Đồng tiền Cạo Gió "Bảo-bối" ! Năm 1921, 3 năm nữa là 100 năm. +-> Mặt phía sau 
(bị dính thuốc sát trùng Đông Y đen thui )
Thiền sư Thích Giác Tịnh, đã nói: có một cuộc thi, vẽ vòng tròn. Có người không phục, thách đố rằng tôi và anh thi : lấy cục phấn "chấm" vào vòng tròn, ai chấm ngay tâm vòng tròn là thắng ! Quả nhiên người đó đã thắng !
_ Thưa bạch trình với Thầy, người vẽ vòng tròn là đa nguyên, và người chấm đúng tâm vòng tròn là nhất thể. Vậy nhất thể chính là đa nguyên, vì đa nguyên quy về với nhất thể ạ !
Bảo-bối là gì ?; What is a stick? Nó là thanh gậy, chống đỡ ta đứng lên; It is the stick, supporting me to stand up; Bởi vì sau khi đã ngồi thiền nhìn trân trân vào nó.; Because after sitting meditation, look at it. Mà hễ nhìn vật là nhớ người; Whenever you look at things, you miss them. Nó là di vật của mẹ tôi, đã để lại. ; It is my mother's relics, has left. Nó tròn một vòng tròn của Nữ Thần Tự Do. ; It circles a circle of the Goddess of Liberty. Mà gom tụ, hội tụ cái nhìn...; Which gathers, convergence look ... Nhớ lại, Thầy đã sưu tầm, những vòng tròn có màu ngũ sắc, nở cánh hình tám cánh. ; Recall, he collected, the circle of five colors, winged eight wings. Phân phát cho chúng tôi, tay cầm kính lúp loại lớn mà nhìn cho tỏ rõ.; Distribute to us, handle large magnifying glasses that look out for.
Trích: Quyển VI. Tạng & Phủ : (chú ý các kinh chạy trên chạy xuống hay dưới chạy lên ?):( Đốc Mạchtừ Trường Cường chạy lên sau lưng tới miệng Ngân Giao; Nhâm Mạch, từ Hội Âm dưới chạy lên tới Thừa Tương nơi cằm dưới phía trước. Châm mũi kim theo kinh là Bổ (Tuỳ), ngược kinh chạy là Tả (Nghinh) để đoạt.
Năm tạng: Tạng nghĩa là tàng trữ như tâm tàng thần (từ tâm chạy xuống tay), phế tàng phách (từ phế chạy ra tay), can tàng hồn (từ dưới chạy lên gan), tỳ tàng ý cùng trí (dưới chân chạy lên), thận tàng tinh cùng chí (từ dưới bàn chân Dũng Tuyền chạy lên Du Phủ). Cho nên gọi năm tạng.
Sáu Phủ: Phủ nghĩa là phủ hay kho, gồm có: Đởm (trên chạy xuống), vị (trên Thừa Khấp chạy xuống Lệ Đoài), đại trường (từ Thương Dương chạy lên Nghinh Hương; mẹ nói "dưới thương lên là nhớ!), tiểu trường (trên Thích Cung chạy xuống Thiếu Trạch), tam tiêu (trên chạy xuống Quan Xung, quan bị "giận"), bàng quang (trước Tình Minh chạy xuống ra sau Kinh Cốt, Chí Âm ngón chân út "anh sẽ lễ chút máu" sót nhau... !). Vì thụ nhận khí của năm tạng tên là phủ truyền hoá cho nên gọi là sáu phủ. );( Trị bịnh "sót nhau" châm kim, thì độc khí qua kim, biến thành "mũi kim độc" châm ngược vào tay...vào người...chạy lòng vòng, chạy tới Thừa Phò. hai huyệt "dưới mông" ngồi cấn Xương là nó....từ từ nó hết ! Cảnh báo !
Năm tạng tàng trữ chất tinh ba mà không bài tiết ra, cho nên đầy mà không thực. Còn sáu phủ chỉ đưa bài tiết ra mà không cất chứa lại nên thực mà không đầy. Như cơm nước vào miệng thì dạ dày đầy mà ruột trống cho nên nói thực mà không đầy.
Phương thang gia truyền (bào chế) Luyện Thiền:
(Ngâm rượu dấu kín, Kẻo người say rượu uống tỉnh rượu lạm dụng !):( thuốc đặc hiệu Tuệ Tĩnh, lấy bông gòn thấm ướt "mồ hôi ngựa" nó khô rồi, chất thuốc còn đó. Lén bỏ vào rượu, uống một lần, mửa tới mật xanh, hết dám uống rượu ! Bỏ luôn được rượu !):( -> Lá dây chìunhai đắp trị "rắn cắn" (nước từ dây chìu, rửa vết rắn cắn...sau khi, uống tí rượu, kê miệng hút máu độc, phun nhả độc, nơi rắn cắn. Tức là "dây chìu" bó củi, ai đã từng đi củi thì biết ! Còn con bổ củi thì "ông uống bà khen" ừ ! Sao , rang vàng, ngâm rượu, thương trường đã có bán ! ):( Người đi củi, ít nhất cũng có lần bị gai đâm, xước tay, trầy chân, chưa nói là vô ý làm "đứt tay", nhai lá ổ tràu, đắp lấy băng cá nhân quấn, mà thậm chí, có lúc, xé vải áo ra băng bó. Nên nói: "Vườn nhà có lá tía tô, Lên rừng đốn củi, là ổ nho lá tràu." ):(Mấy ông thợ thiến heo dùng gì đắp sau khi thiến ? Cỏ nhọ nồi, trộn với than đen với muối ...ừ hỏi ổng nói là cây "cỏ mực" ! -> Xem đây ! Refer : ->Xuất huyết dạ dày (lá tía tô cầm máu trong "dạ dày")Bồ đề đạt ma: Sư tổ (sơ tổ); Bodhidharma: The patriarch (the ancestor)

II.Tâm Tà Điên Cuồng: +-> 1. Tôi thực hành châm cứu ! ; I practice acupuncture! (P1);( Refer: Tải về máy tính-computer: +-> Cây cỏ nước Nam Đỗ Tất Lợi  ; Tôi học châm cứu-Thích Tâm Ấn ; -> Lịch âm dương 7.0 cho máy tính. (Cho điện thoại di động Android tự tìm)

Trang 221-223 
Tâm tà điên cuồng: Toản trúc, Xích trạch, Gian sứ, Dương khê.
Điên cuồng: Khúc Trì (7 liều), Tiểu hải, Thiếu hải, Gian sứ, Dương khê, Dương cốc, Đại lăng; Hiệp cốc, Ngư tế, Uyển cốt, Thần môn, Dịch môn, Xung dương, Hành gian, Kinh cốt (các huyệt trên đều cứu), Phế du (100 liều)
Điên giản: Toán trúc, Thiên tĩnh, Tiểu hải, Thần môn, Kim môn, Thương khâu, Hành gian, Thông cốc, Tâm du (100 liều), Hậu khê, Quỷ nhãn.
Ma cắn (quỷ kích)Gián sứ , Chi câu
Điên: Thượng tinh, Bách hội, Phong trì, Khúc trì, Xích trạch, Dương khê, Hạ liêm, Côn lôn.
Nói bậy (không vui): Đại lăng.
Nói nhiều (lắm lời): Bách hội.
Điên cuồng nói năng không lựa lời, bất kể tôn ty trật tự: Dương khê, Dịch môn.
Hay cười: Thuỷ cấu, Liệt khuyết, Dương khê, Đại lăng.
Hay khóc: Bách hội, Thuỷ cấu.
Mắt nhìn quấy: Phong phủ.
Quỷ tà: Gian sứ, vẫn châm sau 13 huyệt (thập tam châm 13 quỹ huyệt)
Thấy quỷ: Dương khê.
Nằm mơ thấy quỷ: Thương khâu.
Trúng ác ( tác nhân khí lạ, kinh hoàng tác động tâm lý) bất tỉnh: Thuỷ cấu, Trung Quản, +-> Khí hải.
Bất tỉnh nhân sự: Tam lý, Đại đôn.
Phát cuồng: Thiếu hải, Gian sứ, Thần môn, Hợp cốc, Hậu khê, Phục lựu, Ty trúc không.
Phát cuồng chạy: Phong phủ, Dương cốc.
Điên cuồng có ma quái: Lấy dây cột chặt 2 ngón tay cái, 2 ngón chân cái, đặt mồi ngãi 4 chỗ ấy, tức đặt giữa 2 ngón tay và chân, đốt cho cháy hết, chỗ nào không cứu thì bịnh không khởi, cứu 3 liều (tức huyệt Quỷ Nhãn). Trẻ con làm kinh cũng theo cách nầy mà cứu 1 liều, mồi ngải nhỏ bằng hạt thóc.
Bỗng phát cuồng: Gián sứ, Hậu khê, Hợp cốc.
Xiết tùng, 8 chứng kinh phong, xiết co quắp, túng gân dãn ra...ngón tay rút lại: Á môn, Dương cốc, Uyển cốt, Đới mạch, Lao cung.
Si ngốc: Thần môn, Thiếu tương, Dũng tuyền, Tâm du.
Phát cuồng trèo lên cao mà hát, cởi áo vứt mà chạy: Thần môn, Hậu khê, Xung dương.
Điên dại kinh sợ: Bách hội, Giải khê.
Bỗng kinh sợ: Hạ liêm
Điên: Tiền cốc, Hậu khê, Thuỷ câu* (tức Nhân trung), Giải khê, Kim môn, Thân mạch.
Note: vì 1 huyệt có nhiều tên...xem bảng tra có liệt kê, nơi trang 195. ):( Tóm lại: chúng ta bị chi phối bỡi định luật "vạn vật hấp dẫn" và nguyên lý, cùng cực đẩy nhau, khác cực hút nhau...mau hết bịnh...âm cầm kim hút dương...nha ừ...ok , ngược lại dương cầm kim hút âm ừ...ok...ừ ! 
Hỏi: Lý luận của Đông Y cho biết là có tà hoả và chánh hoả, vậy muốn hết hoả tà phải làm sao ?

Hình đồ huyệt vị
Đáp: Châm tả huyệt Túc Tam Lý, mà trước khi châm, án hai tay, bấm huyệt Link: +-> Cao Hoang (diệu huyệt khởi tử hồi sinh; bịnh gì cũng chữa được, còn trị bách bịnh là Bá Hội) nơi góc mé xương của chả vai sau lưng, ngồi toạ bấm (hai tay bắt ấn Chuẩn Đề Vương Pháp: Dụng nơi hai đầu ngón cái ! bộ ấn gồm: 14 bộ thủ ấn pháp...giống như 14 bộ chữ viết Hán-Việt) mà bấm. Nhằm dẫn khí tà ấy, đi xuống đâu ? Theo kinh của Túc Tam Lý, chạy xuống huyệt Lệ Đoài, chích Lệ Đoài nặn chút máu, bình châm huyệt Nội Đình thì hoả tà ấy trở thành chánh hoả, đốt lò cơm điện là cái bao tử. Nếu hoả tà ấy đốt bộ não, thì tất sanh đại loạn ! Bệnh nặng hơn, thì châm Nhiên Cốc* là cốc thầy tu, cất giữa thiên nhiên, cho ra máu, bệnh nhân nhìn thấy máu là "bụng đói" đòi ăn ngay! Đói thì "ăn" mà khát thì "uống" một cách tự nhiên, là lúc ăn ngon miệng nhất, vì vừa ăn lại vừa uống ! Nhớ..là vậy. Là sao ? Túc Tam Lý, dưới nó 0.5 tấc có biệt huyệt chuyên trị "áp huyết cao" nhớ châm tả, châm bổ, bức máu não nguy hiểm, nhớ cẩn thận ! Nguyên lý châm Tả, Bổ, như sau: Huyệt Dũng Tuyền, bấm vào, Vận xoay qua trái(xoay dương, ngược chiều kim đồng giờ chạy): "cầm ói". Vận xoay qua phải (xoay âm, thuận chiều kim đồng hồ chạy):"cầm ỉa" cho người nam! Vậy, xoay nào là "bổ" , xoay nào là "tả" ? Nguyên tắc: nghiêng mũi kim thuận chiều kinh chạy là "bổ", ngược lại là "tả" ! Nhưng áp dụng cho nữ thì ngược lại ! ):(Đáp: xoay dương cho nam là: "...", xoay âm cho nam là: "...." ; nữ thì ngược lại, tức xoay âm cho nữ là...là... ! Trả lời: trước cho nam là : bổ , sau tả là "bình châm" chắc chắn (sure) ; Cứu huyệt, thoa dầu, đánh nóng là bổ, châm cho "tê mê tẩn mẩn" là tả , cần tiết khí ra ngoài, nên châm rút ra chậm, rút ra nhanh, lấy tay bịt lỗ châm là bổ (apply for happiness) ! Sách của Châm Sư: Nguyễn Tài Thu, chưa nói kỹ, xoay thế nào là, bổ tả ? Vì quá chuyên sâu "gây tê" mê để mổ !?! Nên thuốc gây mê, gây tê bị dư thừa... Giám Đốc Viện Thượng Hải, Tây Âu, Pháp, dùng kim vàng châm bổ, kim bạc châm tả, nạo gió cũng dùng 2 loại. Ok  ừ ... Cần tham khảo lại về : +-> Châm bổ, tả ! ("Thạnh tắc tả chi, Hư tắc bổ chi, Nhiệt tắc tật chi, Hàn tắc lưu chi, Hãm hạ tắc cứu chi, Bất thạnh bất hư vĩ kinh thủ chi(điều hoà bình bổ, bình tả.) Tức là muốn "tê rần" chạy lên, hướng kim lên, chạy xuống thì hướng xuống...& cùng lúc cho Hưng Phấn & Ức chế, dùng tật pháp, nhanh rồi chậm, là Ok...;(Ok, hiểu chân thành cảm ơn Sư Phụ. Cho nên có sự tương quan về Tâm Linh Giao Cảm, mà con đường ngắn nhất để đến tình yêu là phải thông qua cái dạ dày, nơi cuộc sống bảo tồn. Vậy, liên đới Tâm Tỳ Vị , là như sau : 
***
CG Heart : Hình ảnh động của trái tim con người cắt ngang, cho thấy cả hai tâm thất và sự hoạt động của van tim, van động mạch.
III. Tâm Tỳ Vị 
Thưa chư vị ! Đây là chuyện có thật. Người bịnh đang náo loạn, nhà cửa di dờđồ vật, sắp xếp lại, theo ý người bịnh, hàng xóm ngỡ ngàng. Nhằm ngay trước nhà học trò, mà la lối. Nghe nói rằng: mời ông Thầy chùa nàđó tới cúng ! Người bịnh, xách chổđánh trên đầu, không sợ. Học trò, giả vờ đi ngang, con bịnh hỏi "anh Bảy hả, cho anh qua". Tui nói rồi, bất cứ ai, ngang qua đây. là tui đập nát cái mũ bảo hiểm. Ủa sao em ốm nhom, đen thui, đi chuyền nước...cho khoẻ. Ông nha ! ông lo cho ông, coi ông bắt gớm, óm như cây sậy: "Ông lo chuyền nước cho ông đi" ! ... Sau đó vài ngày, con bịnh đã chịu cho người nhà "chuyền nước" ...dần dần hết bịnh ! Học trò, lấy tên tuổi mà cúng 1 thời kinh, tại nhà mình. Là mình khoẻ. Chứ có chữa trị gì đâu ?
̣y, trước khi biết về bịnh của Tâm Tỳ Vị, cần biết HUYỆT BÁT HỘI: 1. Trung quản: Phủ hội. 2. Chương môn : Tạng hội . 3. Dương lăng tuyền: Gân hội. 4. ->Tuyệt cốt(Huyền chung);->hợp huyệt: Tuỷ hội.(->Tham khảo) 5. Cách du: Huyết hội. 6. -> Đại trử : Xương hội. 7. Thái uyên: Mạch hội. 8. Chiên trung: Khí hội. Trang 219-220:
Tâm thống (tim đau; nội tạng tim đau hay bị ép cách mô làm tim bị chèn mà đau gọi là "tâm thống" ?):( Khúc trạch, Gian sứ, Nội quan, Đại lăng, Thần môn, Thái uyên, Thái khê, Thông cốc(cứu 100 liều), Cự khuyết(7 liều)
Tâm thống, ăn không tiêu: Trung quản
Đau dạ dày: Thái uyên, Ngư tế, Tam lý dưới 2 vú  1 tấđều cứu 100 liều, Cách du, Vỵ du, Thận du*(nếu không kích hoạt, thì dịch trấp, là tinh ba vật thực, khó mà tiếp thu dưỡng chất, từ mao quản của ruột non, ruột già, mà tận cùng là thải ra nơi Ất tràng...); tuỳ số tuổi mà định số liều. Học trò đã dùng Phương Pháp Rửa Dạ Dày, bằng cách "uống nước" liên tục...uống nhiều lần, uống no đi lại xoa bụng, uống theo sức chịđựng, chịu khó, qua 1 đêm không ngủ, nước sôi để nguội, nước lạnh tinh khiết,...bấm huyệt Giao cảm nơi Nhĩ Châm, lần tìm ra Đ̉đau* trong loa tai, bấm cho đến lúc, bấm nó không còđau. ! Sau lúc, nó tự thoát ra, một chút máu có lẫn nước màu vàng...tự khô.
Tâm phiền: Thần môn, Dương khê, Ngư tế, Uyển cốt, Thiếu thương, Giải khê, Công tôn, Thái bạch, Chí âm.
Phiền khát tâm nhiệt: Khúc trạch.
Tâm phiền hồi họp lo sợ: Ngư Tế ! (cà phê in là liệu chất nuôi tâm vị đắng, khổ qua đắng là dưỡng tố nuôi tâm):( huyệt giải say rượu !
̃ng đau nhói tim không chịu nổi, mửa(thổ) ra nước chua lạnh: Cứở trong lằn chỉ ngón chân cái, ngón chân thứ 2 đều 1 liều, mồi ngải to bằng hạt lúa mì khỏi ngay ! 
Lo nghĩ quá nhiều trí nhớ kém, quên trước, quên sau : Cứu Bách hội, nên thoa dầu ó xanh, bấm huyệt ! (chỗ cái xoáy trên đầu, kẻo bị cháy tóc...ừ):( Là huyệt vị mà Tổ Biển Thước cha đẻ Châm Cứđã bị Tào Tháo, bắt nhốt, vì dám châm huyệt nầy cho Tào Tháo...vậy, bịnh Kiết lỵ ? Châm cứu huyệt nào ?):( Chân thành cảơn và phúđáp: Tam Âm Giao ạ, nơi giao hội 3 đường kinh âm, bụng lạnh toát, thoa dầu cho ấm, dùng cục thịt nơi huyệt Ngư Tếđánh nóng Đan Đ̀n, nộhàm huyệt "Trung Cực" xuống "Hội Âm" , quá trình đó, nhằđánh tan "đờm ẩm" nó không tan, thì get out...from it ! Hết bị Tào Tháo rượđ̉i...
Nguyên nhân sâu xa là do Tam Dương Lạc nơi kinh Tam Tiêu, ăn trúng đồ có "vi sinh" mà làm ù tai, lâu ngày bị hoài thành "đ́c tai", nặng thì bị "mất tiếng nói"...ban đầu giọng bị "khàn" nên hát nghe hay, chừng nghẹt mũi...ủa...lạ !);( Bạn phải xem cho rõ chỗ cư trú của thằng Tam tam đó, nó còn có tên là +-> "Thông gian" nó có biệt tài là "Thông Môn" cái cữa nào nó "mở" cũng ra hết ! Không sao, nơi mà bạđeo cái Earphone tai nghe, nơi nó ụp trên loa tai, tiếp giáp với da đầu, song hành có 3 huyệt, làm phát âm to, rõ, hay vô cùng tận ! 
Tâm phong: Tâm du (cứu), Trung quản.
Phiền muộ: Uyển cốt,  Hư phiền khô mồm: Phế Du 
Lười biếng và nhác: Chiếu Hải
Hay cười (tâm): Dương khê, Dương Cốc, Thần môn, Đại lăng, Liệt khuyết, Ngư Tế, Lao cung, Phục lựu, Phế Du.
Biệt huyệt : Trung Khôi ? Là nơi tâm đ̉m củ"Bàn tay, bấm tính bát Cung cửu vị "; Là nơi mà "vạn sự khởđầu từ đó mà ra"...coi chừng sai 1 ly đi ngàn dặm. Nơi bạn phải biết "đơn vị đo lường" trong châm cứu cho bệnh nhân là ai ? Bát cung: Càn (vai phải) , Khảm (đầu) , Cấn (vai trái) , Chấn (tay trái) . Tốn (chân trái) ; Ly (chân giữa), Khôn (chân phải) , Đoài (tay phải) của ai ? Của bệnh nhân. Theo Bát Trạch Minh Kính (coi tuổi), cũng như theo Châm CứĐại Thành, cho biết là: Cung Khôn ký gởi ngũ trung cung. Cụ thể đó là huyệt vị, biệt huyệt "Trung Khôi". Vậy theo bạn, nó là mắc kẽ ngón tay lóng giữa, kẽ trên hay kẽ dưới ? ):( Nghẹn ăn không xuống là nhớ: Trung Khôi ! Ở đầu lóng ngón tay giữa, là cái khe nằm chỗ đó ! 
Trong án pháp trị Nhi Khoa: có mục số 8. Án huyền tha ma. số 9. trang 348 "Thiên môn nhập hổ khẩu" : Lại một phép từ cung Càn xoay theo cung Khảm, Cấđẩy vào hổ khẩđè vào cho tiêu khí. Nắm tay người bịnh lay nhẹđể hoá đàm....sao bạn biết mà làm ? Ứng với bát cung thì có tám huyệt, vậy cửu vị là nhớ trung tâm đ̉m của vạn sự. Cửu khiếu là chín lỗ thông hơi của cơ thể con người, là nơi vô cùng quan trọng. Lúc mà Vương Vũ đóng phim, nhúng tay vào nối lá sôi sùng sục, ṭt ra, các lá ấy chỉ sôi có 40 độ C, và nhân thân con người có 37 độ nóng. Bạn không có cây kẹp nhiệt, lấy da tay ngoài, sờ trán sao chuẩn xác ? )( Lúc mà Miêu Khả Tú, bị một chưởng "trào máu họng" thì Xương Đ̀n Bảo Chiêu, đã giải huyệt gì, hết "trào máu họng" ? Nguyên nhân sâu xa là bởi chỉ duy nhất có một khí, ấy là "nguyên khí" nên Nội Kinh có luận giảng: muôn bịnh có ra là do khí, có luận bàn khác nhau bởi 9 khiếu. Theo ông Trương Tử Hoà bởi mắc phải chín tình cảm: nộ (giận dữ); hỉ (vui); bi (lo rầu); khủng (sợ); hàn(rét); nhiệt(nóng); kinh(hãi hoàng); tư(suy nghĩ), lao nhọc. Bởi nộ khí nghịch nhiều, thì ói ra máu và tiêu chảy. Nhưng chỉ có chí công mà vô tư (không suy nghĩ) là cái thứ "vô lo" thiếu trách nhậm vậy:
_ Trào máu họng: Khúc trạch, Thần môn, Ngư tế.
_Ói ra mủ: Chiên trung
_Ói ra đồ ăn không tiêu: Thái bạch.
_ Ham nằm không nói: Cách Du ! Coi chừng "bỏ ăn" ? );( Nó lỡ ăn rồi thì cho nó "ói ra":
_Trị: Trước tả Hạ quản (Quản nào cũng hạ); sau tả Tam lý, Vỵ du, Cách du(cứu 100 liều), Trung quản, Tỳ du. ):( Nó hếăđược nữa thì sao ?
_ Thì trị: Thiếu thương, Tam Lý, Nhiên cốc, Cách du, Vỵ du và Đại trường du. Vì nơđại trường nó hết chạy là "du" sao nó ăn chứ ? Nó "làm dóc" dâng đồ ngon mỹ vị, mà nó không thèăn? Thì trị huyệt nào:
_Trung phong, Nhiên cốc, Nộđình, Lệ đoài, Ẩn bạch, Âm lăng tuyền, Ṕ du, Tỳ du, Vỵ du, Tiểu trường du. Lúc mà Tiểu trường du đã chạy thì, nó hút hếđồ ăn ngon. Hỏi nó xem còn muốn gì ? );(Nó bảo rằng "lỗ mũi" tui hết chính xác, ngưởđồ nào cũng nghe mùi hôi ? Sao trị ? Châm, hay bấ:
_Bách hội, Thiếu thương, Tam lý, cứu Chiên trung. Nó hỏi vì bị như vầy nè : Tôi nói thiệt là "ăn nhiều lắm" mà sao không chịu mập, cứ gầy gầy.
Thì trị: Tỳ du, Vỵ du. Nó hỏi "nguy cấp" sao 4 ngày mà chưđi toilet ?
_ Tỳ hư: Thương khâu, Tam âm giao (30 liều). Nó có nghe hơi chướng ói ngược hơi nóng đưa lên không ? Có là Đởm hư, thì trị:
+-> Khí hải. Nói tóm lại...mọi bệnh là do gì ? Vâng ạ ! Vâng ạ...là do "khí" . Hết chưa ? );( Còn nữa...nó hỏi anh còn "đồng tiền nào" trên 100 năm nó mua...bằng vàng anh chịu hông hả ?!? Nói nó đừng mua, để dành "đúc ra cây kim thử đồ ăn có ai bỏ độc vào không" ? Và ...thôi được, anh thú thiệt anh còn +-> 1 đồng mạ vàng của thời Pháp thuộc,  ):(công khai minh bạch, kẻo phát sinh "trộm cắp": lớp mạ mỏng dính, nó lòi ra +-> "niken" ; Niken(II )Hydroxit ;  hình "nữ thần tự do" nhưng bên trong, nền ẩn sâu còn màu vàng, năm 1908, chữ sắc nét, nhìđẹp ! Nay là bao nhiêu năm ? Cái "bảo-bối" là của quân đội MỹIn God We Trust-1921...ok! Vì quân Mỹđã từng có mặt nhiều nước, nên chữ Trust....thì chữ "u" nó thay bằng chữ "v" là Việt Nam ...ừ 
_ Hả ! lạ trời giờ là "nằm không được" ? Trị: Thái uyên, Công tôn, Ẩn bạch, Phế du, Âm lăng tuyền, Tam Âm Giao...là nó lăn ra...ngủ, nghỉ ! Rest ! hì ! Thật ra do "tư khí" gây ra không ngủ ! Tức "lo lắng" lo nghĩ nhiều quá, hay nằm, chếnh choáng, mắt mờ, tam tiêu bế tắt, hầu họng không thông, vàng da óđắng, teo gân, bạch đàm, tứđờm trắng, không thèăn uống. );( Không ăn thì chết, 7 ngày sau là chết, nếu không uống ! Ông giải thích, làm sao cho nó ăn ? Nguyên lý : ai là người "chọc" cho nó "giận"...đó, chỉ có ngườđó, "nộ" thuộc can mộc, mộc có thể khắc thổ, mộc khí xông phát lên, là tỳ nó "mở" ra....nó sẽ ăn mà SỐNG...ừ...);(Hiểu rồi, người làm nó "giận"  là người nó "thương"." ? );(Chớ bày "nộ khí xung thiên" chuyển qua "khoa tâm thần" là nguy!... Muốn thử để biết là vàng thì sao ? Thì mua acid nitric, tụi làm nghề "bình ắc-quy"...bôi vào, hay làm nghề "vàng kim"...nhỏ giọt vào, bằng đồng nó sủi bọt, thành màu xanh, vàng thiệt nó không phảứng gì cả ! ừ...; Túy hầu quyền: con khỉ say rượu .; Drunk monkey: drunk monkey .