Đề tài: giảng luận số 23 (hai mươi ba)
Topic: lecture number 23 (twenty-there)
Tam Giáo; Three Religions
Theo phiên bản, xuất bản năm 1993; By version, published in 1993; Hiệu chỉnh và dịch sang Anh ngữ, học trò nầy: tự học tiếng Anh - LÊ ĐỨC HUYẾN; Editing and translating into English, this student: self-study English - LE DUC HUYEN; (Trang 343; Page 357)
*&*
Thích Ca chánh pháp lưu truyền đạo-đức
Shakyamuni Dharma transmits morality and ethics
ĐẠO đời quy hiệp nhứt: Tam nguyên vẹn
Life's Way of Life: Unity of the Three
NHO đạo Khổng Tử, Lão Tử: ẩn tu
Confucianism Confucius, Lao Tzu: hermitage
Tam giáo quy nguyên: tam quy hiệp nhứt!
The three teachings of the original: the three rules of union!
*&* (sai minh họa: làm lại & thay!)
Quy Y; Refuge ; QUY Y; REFUGE:
Tôn giáo, chánh tín*: tại gia,
Tôn giáo, chánh tín*: tại gia,
Sư-Thầy: chỉ dạy, Thích Ca nhiệm màu!
Religion, righteous faith: at home,
Master-Teacher: teaching, the miraculous Shakyamuni!
Trọng tình hiếu nghĩa có nhau,
Đạo cao đức trọng, mai sau: nên người!
Respect for each other's filial piety,
High morality and dignity, in the future: become human!
Trong như: tánh nước, hoa tươi,
Hình liền với bóng, nụ cười Phật ban.
In like: water nature, fresh flowers,
Image with shadow, smile Buddha bestowed.
Còn trong duyên nghiệp: hòa an,
Đó đây tu học, đạo tràng: quy-y!
And in predestined karma: peace,
Here and there, studying in the ashram: take refuge!
Kính lạy Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (1 lần)
Homage to Shakyamuni Buddha (1 time)
Kính hương linh: Tổ sư MINH ĐĂNG QUANG vắng bóng (1 lần)
Regards to the spirit: Patriarch MINH DANG QUANG was absent (1 time)
Kính lạy: Chư Phật, Pháp, Tăng mười phương ba đời (3 lần)
Reverence: Buddhas, Dharma, Sangha of the ten directions and three generations (3 times)
1.- Đức Khổng Tử là một nhà hiền triết, dạy đạo cư gia.; Confucius was a sage who taught laypeople.; Ngài sanh ra trong thời giặc loạn của xứ Tàu, sau Lão Tử 53 năm, tức là sau Phật Thích Ca vậy.; He was born in a time of war and rebellion in China, 53 years after Lao Tzu, that is, after Shakyamuni Buddha.
Đức Khổng Tử là một người con chí hiếu!; Confucius was a filial son!; Lúc nhỏ Ngài tập hành chơn lý Lễ-giáo, Ngài tập lễ bái đến khòm lưng!; When he was a child, he practiced the truth of etiquette, he practiced bowing to the point of stooping!; Ngài gặp ai lớn nhỏ Ngài cũng lễ bái, cho đến cái cây, cục đá, Ngài cũng lễ bái nữa.; When he met anyone, big or small, he also worshiped, even the tree, the stone, he also bowed.; Vì đối với Ngài lễ giáo là phép lịch sự, là phép thân thiện là lòng thương yêu, là sự kính nể, tốt đẹp hơn hết.; Because for him, etiquette is politeness, friendliness, love, respect, and best of all.; Ngài cho rằng: có lễ giáo, con người mới có thứ tự, có lòng nhân, mới sống chung nhau được.; He said that only when people have etiquette, people can have order, be benevolent, and live together.; Chính lễ giáo là sự nho nhã hay nhu hòa, khiêm nhượng, mềm yếu, dẻo dai, mới là con đàng sống được.; It is the religion that is gentleness or meekness, humility, softness, endurance, that is the way to live. ☑
Có nhu đạo mới thành nhân đạo, và nhu đạo là sẽ thắng tất cả mọi thứ chiến tranh mạnh cứng, là phép sống đời trong những cảnh loạn ly.; Having judo is the way to be humane, and judo is the way to win all kinds of hard wars, is the magic of living forever in chaos.; Có Nho đạo cũng là sợi dây cột chùm tất cả cây cao để tránh nạn bão to gió lớn, cùng là sự xô xát, đập đùa: lẫn nhau!; Having Confucianism is also the rope that ties all the tall trees together to avoid the storm and the wind, and the scuffles and jokes: each other! ☑
Nho giáo là giáo lý bình dân dẹp loạn trong khi có loạn, và là một giáo lý lập gia đình hay hơn hết. Cốt yếu của Nho giáo, là loài người phải có lòng nhân, đừng giết hại lẫn nhau nên cũng gọi là nhân đạo. Theo giáo lý ấy, mọi loài đều phải sống, khi đã có cái sống, và không ai nên làm cho ai phải chết, khi tự họ chưa chết! Đành rằng sống là khổ, nhưng ngoài mặt đất này ra, ta còn biết phải đi đâu tránh khổ và nếu chết đi vì uất ức, vì luyến ái, thì còn phải khổ gấp trăm lần nữa vậy.
Thế thì ai cũng phải sống cả, và muốn mình sống, thì đừng giết hại người; có không thù oán, thì ta mới được sống yên, và ta không nên để gương ác, hại lại cho đời sau; mà tất cả đều phải giữ gìn một giới cấm nghiêm trọng là: không nên sát sanh hại mạng.
Không sát sanh mới có lòng nhân ái, mới được gọi là nhơn loại! Mới có khác với buổi ban đầu, và là đã tiến hóa lên cao một nấc, khác cổ nhân.
Cũng vì sự khuyên can chém giết lẫn nhau, mà đức Khổng Tử Ngài dạy về đạo Tam cang và phép ngũ thường, cho trong gia đình xã hội; Ngài bày ra sự quan hôn tang tế cho loài người, Ngài dạy trẻ nhỏ thành nên người lớn. Ngài dạy con thú trở nên người ta, Ngài dạy kẻ ác trở nên người thiện, Ngài làm cho tất cả phải sống. Giáo lý của Ngài cũng như bọc thai; luật pháp của Ngài như lòng khám, để nhốt đậy giữ yên, cứu sống mạng người trong cơn khủng hoạn.
Đạo nhơn nghĩa của Ngài, mục đích để kết liên sự sống giữa ta, người, gia đình, xã hội, thế giới và cả chúng sanh chung, từ nhỏ tới lớn, từ ít đến nhiều, và như thế là phải thương yêu nhau tất cả, từ hẹp tới rộng, để cho không còn tai nạn.
Ngài cho rằng: vạn vật ta làm cho tốt được, thì ta cũng phải làm sao cho tâm ta được tốt, có như thế, vạn vật mới ở bền với ta, ta mới có được vạn vật; giáo lý ấy tức là đạo của Ngài, tức là Ngài bảo thủ thuyết “Có”! Có ta, có vạn vật, ta và vạn vật đều phải trọn lành tốt đẹp, có mãi, giữ mãi, sống mãi. Vật hư làm cái khác, người chết sanh trở lại, tức là giáo lý luân hồi nhơn quả: ta phải có, ta phải sống, ngày nay và ngày mai, phải luôn luôn tốt đẹp, có công mới có quả, công quả phải bằng nhau. Ấy là lý trung dung của Nho đạo.
Theo giáo lý đức Khổng Tử, thì trẻ nhỏ phải học Nho giáo, người lớn phải thật hành Nho giáo, và ông già thì đem Nho giáo dạy lại trẻ nhỏ, phải đem Nho đạo lập thành cõi đời, phải lấy Nho đạo làm phong hóa, Nho đạo phải là con đường cái của nhân loại.
Theo Nho đạo, thì người ta phải đứng tại lớp người, chớ đừng lui lại lớp thú, và cũng là chưa biết phải đi tới đâu. Đức Khổng Tử khi xưa, Ngài chỉ biết thời hiện tại, việc gì cũng phải vay trả cho xong, trong ngày hiện tại, trước mắt, mà Ngài cho rằng: ta phải khiêm nhượng, mà đừng ngó tới xa quá của bậc Trời Phật lớp trên, và cũng chớ quay lui trở lại lớp thú, nghĩa là con người phải biết lấy địa vị, việc làm của mình hiện tại, mà đừng nhắc việc quá khứ vô ích, hay là luận việc vị lai không công mà chi. Cũng như học trò, cứ lo phận sự học hành theo bài vở của mình cho xong, là được lên lớp, chớ nói luận làm chi rộn nhọc.
Như vậy nghĩa là: Nho giáo tiến, chớ không phải thủ, mà là tiến bằng cách chậm rãi dè dặt, thận trọng. Trên Nho giáo là Lão Tử, Trên Lão giáo là Thích giáo. Nghĩa là, trên người là trời, trên Trời là Phật. Nho giáo là lớp ba, Lão giáo là lớp nhì, Thích giáo là lớp nhứt. Trong một trường đạo có ba lớp, mà chỗ đến có một mục đích, là bởi khổ tìm vui vậy!
[345] Bởi sau đức Phật 500 năm, nên đức Lão Tử noi gương đức Phật hành đạo: độc-giác một mình!; Because 500 years after the Buddha, Lao Tzu followed the Buddha's example of practicing the Way: Solitary Enlightenment!; Mà ông ấy đã nên đạo, phép thần thông, huyền bí, siêu hình.; And he became religious, magical, occult, metaphysical.; QUÝ CÔ NÀO (đánh máy sai và thiếu) [?]
.....
Vậy nên Tam giáo quy về là một đạo*, ba Ngài cũng như một; hai lớp sau về lần theo lớp trước, và bởi do lớp trước mới có hai lớp sau, các lớp có ra, là do tùy nơi căn cơ trình độ của chúng sanh thấp kém mà lớp dưới phải mở bày ra để lần đưa lên lớp trên chỗ một.
Giáo lý của đức Khổng Tử, không thể dạy được bậc đã thiện rồi hay như bậc ông già lớn tuổi, như bậc quân tử, mà là giáo lý sắp đặt chế trị, nghiêm luật, lo cho đám trẻ nhỏ côi hoang thôi. Nho giáo là giáo lý cần sống, thiện để sống, và rồi sống để chịu khổ vậy.
Nho giáo là giáo lý sống tạm theo thời, nên cũng kêu gọi là đời, hay đường đời, giáo lý tạm trong lúc chiến tranh mà không dùng được trong khi yên tịnh. Nếu sống mà không học, thì có khác nào người hiền mà chưa có con mắt, sẽ nguy hại biết bao. Sự học của Nho giáo là lo cái sống, chớ chưa học đến chơn lý võ trụ, và các pháp trong thế gian, cũng như cái học chỉ giữ có một quyển sách, một bài, thì dùng không được trong những việc khác trở ngại.
Theo giáo lý của đức Khổng tử, Ngài bảo con người đừng tham lam, nhưng Ngài lại dạy phải bảo thủ cái có, phải giữ gìn vật chất có khác nào là tích trữ nguồn gốc của sự tham lam, tranh cạnh?
Ngài bảo người ta đừng giết nhau, phải cần sống, tức là xúi con người tham sống, mà hễ tham sống cho mình, thì sao lại chẳng đi hại kẻ khác!
Ngài bảo người ta đừng hơn thua, nhưng Ngài lại dạy mỗi người có danh lợi, có khác nào là đốc xúi sự chen đua, lấn áp lẫn nhau.
Ngài bảo người ta đừng chia rẽ, nhưng Ngài lại đặt tên xã hội, tên gia đình, tên quyến thuộc bà con, tức là sự phân chia khác biệt ta và người. Thì hỏi thử làm sao mà bình yên được?
Ngài dạy người ta phải sống, nhưng nào có thấy ai được sống mãi, Ngài dạy phải chấp có, nhưng nào ai xưa nay, có thấy cái chi thường bền, có mãi đâu. Vì thế nên đức Khổng Tử, Ngài mới thất bại nơi nước Lỗ, cùng 72 xứ chư hầu xưa không trọng dụng, và cũng như khi hầu chuyện với Lão Tử, Ngài thấy Ngài nghẹt lối, nói không thành lời.
Ngài thật hành và chủ trương theo giáo lý trị thế, cũng thật hay, nhưng kẻ đời sau, hiểu lầm nơi giáo lý của Ngài, xưng gọi đệ tử Ngài, mà họ đi làm giặc loạn, để bôi lọ, vẽ mặt, phá hại đạo Ngài, thật là đáng tiếc!
Cũng vì thế, mới có kẻ dám nói: đức Khổng Tử sợ người ta chia rẽ làm giặc nhỏ, mới bày lập gia đình xã hội, binh đông để làm giặc lớn, giết chết một lần cho gọn. Những kẻ ấy trách quá đáng, họ biết đâu người hư, chớ nào phải đạo tệ, bởi đời sau tại kẻ học hiểu lầm, hành sái, vì cho bấy nhiêu là đủ, mà không chịu tìm kiếm lớp Trời, Phật học thêm, mới phải có tai nạn, là tự họ vậy. Mà cũng phải có như vậy, thì giáo lý của Lão Tử, mới được nổi danh hơn, và người ta mới biết Trời là cao quý hơn người! Còn Phật thì cao siêu hơn Trời kia nữa.
2.- Đức Lão Tử, thật là khác hẳn đức Khổng Tử, đức Lão Tử thì lưng ngay, đầu thẳng, trọn đời chẳng biết cúi khòm, tánh cang trực của Ngài, không sợ ai cả, cho đến bị người ta đánh đập, mà Ngài cũng chẳng một tiếng kêu xin; Ngài tin công lý, Ngài muốn tìm hiểu chơn lý của võ trụ. Ngài cho chúng sanh vạn vật vốn vô quyền, vô trị, ai cũng như ai, cái gì cũng như cái nấy mà thôi. Hoặc may chúng sanh vạn vật có khác nhau, là chỉ nơi giáo lý danh từ tạm, nơi thể tướng tạm bên ngoài, chớ tất cả đều là một linh hồn, ai ai cũng là tâm hồn như nhau hết, dầu trình độ cao thấp, chớ rốt cuộc rồi cũng vẫn như nhau, bằng nhau, còn xác thân dầu là của người thú, hay cỏ, cây, cả thảy là đất nước lửa gió, chớ không có chi danh vọng. Dầu người ta không giết thì nó cũng tự chết lấy, nên giết mà làm gì, giết hại thù oán mà chi. Vì có ai giết hại tâm hồn ta đặng đâu, mà hòng lo sợ. Đức Lão Tử Ngài sống bằng một tâm hồn, có ba phần: linh, giác và thần.
Tức là Ngài sống bằng siêu hình, và Ngài tách mình ra khỏi đám nhục dục thấp thường, mà sống riêng nơi núi non thanh vắng, hang động, im lìm. Ngài là kẻ chết, Ngài là kẻ không tham muốn gì hết. Ngài chỉ muốn sự thanh nhàn tĩnh mịch, để dưỡng tâm yên lặng trong cõi huyền bí thôi. Ngài cho rằng: cuộc đời vô ích, và giả dối, ai ai rồi cũng thất bại cả, vì cái có, là đang ở trong cái không, không bao chụp, như vậy là Ngài chấp không, cả thảy đều không, Ngài ở trong cái không, được vui sướng chơn thật hơn.
Giáo lý của Ngài, là chết vui, hơn sống khổ, và không có xã hội, gia đình, quyến thuộc, bà con, của cải, miếng ăn, danh lợi gì cả. Vì chúng sanh là những linh hồn, và vạn vật là đất nước lửa gió thôi.
Đối với Ngài, thì chúng sanh không ai lo cho tâm hồn ai được, mỗi người phải tự lo lấy, cũng như không ai giết tâm hồn ai được, vì là nó tự sống lấy, thì phiền lụy với nhau mà làm gì, giáo lý ấy là đạo của Ngài; Ngài kêu nó là đạo, vì nó là con đường cao ráo, chỗ cứu vớt kẻ trầm luân, những kẻ đã bị trầm luân, trong chốn biển ô danh lợi của cái có, cái ác, cái tham, cái lún sâu không bờ bến, không nơi nương dựa, không rồi, không kết quả mục đích. Đạo giáo của đức Lão Tử, là lớp trên cao hơn Nho giáo, và là đối nghịch với đời. Người học Nho mà bước lên lớp này, thì phải bỏ hết sở chấp, mà chỉ phải còn dùng cái trí, cũng như lên lớp trên là phải bỏ hết bài vở cũ của lớp dưới, mà chỉ mang theo được cái trí thôi.
Giáo lý của Phật như mặt trời.
Buddha's teachings are like the sun.
Giáo lý của đức Lão Tử như mặt trăng.
Lao Tzu's teachings are like the moon.
Giáo lý của đức Khổng Tử như ngôi sao.
The teachings of Confucius are like stars.
Giáo lý của đức Khổng Tử và Lão Tử tuy còn là lớp tạm, không thật, nhưng giáo lý của đức Lão Tử, thì sáng rỡ hơn nhiều, cũng như mặt trăng thì sáng hơn ngôi sao, tuy vậy chớ cũng còn đêm tối, chưa được sáng rỡ như mặt nhựt. Nghĩa là chưa bằng giáo lý giác ngộ của Phật, chỉ rõ tất cả sự thật của ban ngày.
Theo đạo giáo của đức Lão Tử, thì người ta phải lo tu tâm, lánh bỏ cõi thế đời giả dối, chiêm bao, mà đừng mải mê đeo theo gánh hát diễn trò, mang râu đội mão, nó chỉ là sự khổ sở vô ích, không rồi, thất bại, lếu rộn.
Vì hễ việc chi càng lo, là phải lo mãi, việc có hoài; còn bằng không lo, thì càng khỏi lo và không có chi hết. Việc đời cũng y như vậy, sợ gió làm động mặt nước, lấy gió trừ gió, làm cho gió lớn mãi, gió khắp cùng. Vậy tại sao chúng ta chẳng gọi là không rồi thì sẽ không có gì hết, cho được thanh nhàn yên lặng, có thong thả hơn không?
Vậy nên theo giáo lý của đạo Lão Tử, thì người ta hiền rồi, là phải đi tu, ông già là phải đi tu, làm người là phải đi tu, khi thái bình rồi, là phải đi tu; vì hiền rồi mà không đi tu là khổ và sẽ ác trở lại.
Ông già mà không đi tu, là khổ và sẽ làm trẻ con lại. Thái bình rồi, mà không đi tu, là khổ và sẽ sanh chiến tranh lại
Như thế thì giáo lý của đức Khổng Tử, là gom chúng sanh lại để đừng chia rẽ, sanh loạn nhỏ, lúc ban đầu.
Còn giáo lý của đức Lão Tử chia rẽ chúng sanh ra, để đừng có giặc loạn to, lúc về sau: nghĩa là: khi chia rẽ mà loạn, thì phải gom hiệp lại, cho bình yên; về sau khi hết loạn rồi mà số đông gom hiệp, ở lâu sanh loạn, là phải chia rẽ ra trở lại Dầu ly hay hiệp đều là pháp thái bình tạm mỗi lúc, để nối tiếp sự bình yên mãi mãi. Như thế là pháp phải thay đổi luôn luôn theo thời duyên, chớ không nhứt định được.
Cái hiệp của đức Khổng Tử, là để cho thân sống, chớ không phải để làm loạn chết thân tâm.
Cái ly của đức Lão Tử, là để cho tâm sống, chớ không phải để chịu khổ chết tâm thân.
Gồm cả hai pháp, thì thân tâm đều sống mãi, ấy cũng vì muốn thiện mới hiệp, và vì trái cảnh, muốn thiện là phải ly, chớ không phải ly để loạn, hay là hiệp để hại lẫn nhau, theo lẽ ác.
Cũng như đức Khổng Tử làm cho thái bình và đức Lão Tử thì tiếp thêm làm cho thái bình vĩnh viễn; mà hai pháp ấy thiếu một cũng không được: vì thiếu Nho giáo thì không thái bình và thiếu Lão giáo, thì cũng sẽ sanh loạn trở lại. Cũng như kẻ cầm binh khí, là để ra trận mạc, khi không có chiến tranh, mà còn cầm binh khí là chính tự họ sẽ làm loạn tiếp tục kế đó. Vậy thì sự lìa bỏ binh khí, khi hết loạn, tức như sự giải thoát đi tu của Lão tử, trong thời thái bình, thật là đúng lý. Cũng như Trương Lương công thành thân thối, là hay quý.
Đức Khổng Tử sanh trong thời loạn. Ngài dẹp loạn rồi mới đi tu.
Đức Lão Tử, sanh trong thời bình. Ngài đi tu là cho được bình yên, mãi mãi, giáo lý thay đổi khác nhau theo thời duyên, thật là quý hay, hữu ích lắm vậy. Giáo lý của hai Ngài là đạo của thân tâm, là đạo của tất cả chúng sanh, đạo ấy là lẽ sống vui trên mặt đất cho đến ngày hôm nay.
Đức Phật cũng dạy đúng y như thế: Thân thì phải chung hợp sống chung, tâm thì phải tự ai lo tu riêng nấy.
Cũng như cây cỏ xác thân thì tựa lấy kề nhau, còn tâm thì ở riêng trong mỗi xác thân; trong đời ai muốn chết, mà nhớ đến đức Khổng Tử là họ tự sống trở lại! Ai quá khổ, mà nhớ đến đức Lão Tử, là họ liền vui trở lại. Hai Ngài là xác thịt và linh hồn của chúng sanh, của mỗi người, mà không ai có thể quên thiếu một phần nào được cả.
Về thuyết có của đức Khổng Tử, thật là có hoài, có mãi giáo lý làm việc thật cực nhọc, nhiều lắm, mà sự kết quả lại ít hơn. Vì tình nghĩa gom hiệp là việc nhỏ nhoi số ít. Còn chúng sanh đông nhiều thì không hiệp được, dầu thân có hiệp, chớ tâm chẳng bao giờ hiệp, thì làm sao số đông xã hội mà ép buộc cả thảy các thứ tâm ý cho y nhau, trách gì giáo lý có, của đức Khổng Tử chẳng làm cho xã hội không bền vững, mà trái lại giáo lý Nho đạo, dùng lập gia đình cỏn con thì hay, đúng lắm. Thế mới biết rằng việc chi có sắp đặt, có trật tự, có cai trị là chỉ được cho số ít thôi. Như thần quyền chúa tể, thì không cai trị cả chúng sanh được. Cũng như ông thầy giáo lớp chót, đối với học trò sơ cơ khờ dại thì phải dùng luật để trị, kẻ tiểu nhân ấy, trong một số ít; chớ với các lớp lớn trên cao kia, thì phải lấy lễ mà đãi họ, chỉ phải chăm lo dạy họ, để cho họ tự tu tự sửa lấy, chớ không dùng quyền luật đối với họ nữa, vì họ biết tự tu tự trị lấy họ, nào phải cần ai ép buộc.
Vả lại ở lớp dưới, học trò đông, mà đứa nên rất ít; ở lớp trên học trò ít mà đứa nên nhiều; lớp dưới thì khó dạy mà phải trị, lớp trên thì không trị mà dễ dạy, được là cũng bởi nhờ sự rèn luyện của lớp dưới buổi đầu, để đưa lên lớp trên, cái trang nghiêm tốt đẹp ấy.
Giáo lý Lão Tử lớp trên, Ngài chỉ nói về lý “không”. Ngài không có mệt nhọc lo lắng gì cả, Ngài bảo mỗi ai tự lo trau tâm lấy mình, Ngài bảo người ta bỏ thế sự, danh lợi để trau tâm, thì tất cả đều nghe theo, và cả xã hội, tự ai nấy lo trau tâm, là được yên vui tất cả. Vậy nên giáo lý Lão Tử là dạy về xã hội số đông hay hơn hết, mà lại khỏe khoắn, không có mệt nhọc chút gì. Người ta cũng nói đức Khổng Tử chuyên dạy về bình dân, làm cho dân không loạn, về phép nội trị trong nước.
Còn đức Lão Tử thì chuyên dạy vua quan trí thức, kẻ cầm đầu, hay cũng như con rắn, ta chỉ bắt khúc đầu. Sự thật như vậy, kẻ bề trên mà biết tu tâm, cũng đủ cho muôn dân được hưởng nhờ hạnh phúc, và giặc giã không từ đâu phát sanh ra được nữa. Và bậc vua quan mà còn phải lo tu, thì dân giã đâu còn ai dám ham muốn cái vua quan theo như người ta hiểu lầm cái vua quan là danh lợi, mà sự thiệt của vua quan là khổ sở, là tôi tớ của dân khờ, là nạn tại của cướp trộm, bởi sự hăm he thù oán và mãi lo lắng giữ gìn của cải thân mạng cho muôn loại, bằng cách chẳng công ơn, đã bị bận rộn mãi cho ai, mà không còn đường tấn hóa cho mình đi kịp. Thế mới biết vua quan là khổ, là hy sinh, là thiệt thòi đủ thứ. Kẻ lãnh trách nhiệm của cha anh, tuy sướng thân một chút, mà thật là lao tâm khổ trí. Bổn phận cha anh, không phải dễ, hành đúng thì cũng khổ, mà hành không đúng thì cũng khó lòng, khổ nhất là mãi lo ăn ở cho đàn em bất trị, không rồi, không xong gì cả mà chúng oán hờn.
Phương châm của Đức Lão Tử là sự chỉ cho cái tâm hồn, lo cho lúc sau khi chết và hiện tại là không có, vạn vật là không thường, giáo lý ấy an ủi rất khéo, làm cho người ta quên hẳn sự khổ của hiện tại nhứt là làm cho các ông già, những người chán nản thất bại, được vui sướng mà sống lành thêm, tức là tạo thêm tâm hồn từ bi hỉ xả, cao thượng, mà kẻ sống thì thấy mình đã chết, nên thông thả an nhàn, sung sướng lắm họ không còn có thấy cái gì nữa trong thế gian, họ đang ở trong cái không không, tuyệt đối, nên khỏe nhẹ và sáng suốt thông minh lắm. Họ sống bằng lý trí, vui với lý trí, ngoài ra họ không biết gì gì cả.
___________@*&*@___________