Đề tài: giảng luận số 22 (hai mươi hai)
Subject: lecture number 22 (twenty-two)
Chánh Kiến; Right View
Tác giả: MINH ĐĂNG QUANG
Author: MINH DANG QUANG
Theo phiên bản, xuất bản năm 1993; By version, published in 1993; Hiệu chỉnh và dịch sang Anh ngữ, học trò nầy: tự học tiếng Anh LÊ ĐỨC HUYẾN; Editing and translating into English, this student: self-study English LE DUC HUYEN; (Trang 324; Page 342)
Câu kệ-tụng; Verses of chanting
Ai bày Chớ theo!; Who shows Do not follow!
Cũng vì tập tục có khi xưa,
Nay bày-vẽ, ngăn ngừa, mê say.
Tập tục mê tín ai bày,
Đọc nơi Chánh kiến, đổi thay chuyện gì?
*&* Also because of the old custom,
Now show-draw, prevent, infatuate.
The superstitious customs who show,
Read in Right View, what changed?
Giáo điều chánh lý từ-bi hạnh,
Phật, tiên, hiền-Thánh, chánh trung: ngay!
Việc làm phải, trái: tà vạy,
Ấy là nhận thức, ai bày, chớ theo!
*&* Doctrines of Righteousness, Compassion, and Virtue,
Buddha, fairy, sage-Saint, righteous: right!
Right and wrong deeds: perversion,
It is perception, who presents, do not follow!
Cư sĩ TÂM-ĐĂNG, ngày 25-3-2023; Layman TAM-DANG, March 25, 2023
|
正 見 (Righteousness) |
Chánh kiến là sự thấy rõ lẽ chánh, để thật hành theo, khỏi phải mê tín.; Right view is seeing the truth clearly, to practice according to it, without having to be superstitious.;
Vì mê tín là một việc xấu xa, bị người chê ngạo cho những cái việc làm xu hướng, mà không hiểu nghĩa lý của việc ấy!; Because superstition is an evil thing, being mocked by people for trending things, without understanding the meaning of it!;
Khác thể như người đau mắt, chẳng thấy đường, lần mò đi đêm vậy.; It's like a person with sore eyes, unable to see the way, groping around at night. ☑
Trong một xứ mà dân tộc mê tín, thì cũng như một gia đình mắt nhặm, ai muốn dắt dẫn bảo sao nghe vậy và cứ nhắm mắt làm theo!; In a land where the people are superstitious, it's like a blind-eyed family, whoever wants to lead tells them why and just shuts their eyes and follows them!; Thì còn gì là sự tự-chủ và tiến hóa, láng giềng kẻ khác ai mà lại chẳng xỏ mũi cười khinh.; Then what is the self-control and evolution, the neighbor who does not laugh scornfully. Thật vậy, thà là làm kẻ ngang ngạnh, còn hơn là người tà kiến.; Indeed, it is better to be defiant than one with wrong views. ☑
I.- Ông Táo; Mr Apple:
Cũng như thuở xưa, bên Tàu giặc mọi Mông Cổ chiếm đoạt xứ Tàu, quan Mông Cổ da đen đi cai trị khắp nơi; hà lạm, khắc phạt, vơ vét của tiền thiên hạ.; Just like in the past, on the Chinese side, all Mongol invaders took over China, black Mongol mandarins ruled everywhere; abuse, punish, plunder people's money.;
Vì vậy dân tình thán oán, kêu là ông Táo.; Therefore, the people complained and called him "Tao".;
Chữ "táo" là bịnh bón nhiệt, rít róng, có ăn thâu vô, mà chẳng có bố thí cho ra.; The word "apple" is a heat illness, hissing, eating in, but not giving alms out.;
Bởi có bệnh táo, người ta mới nấu trái táo, lấy nước mát mà uống, trái táo là trái nấu uống mát, trừ bịnh táo.; Because there is apple disease, people cook apples, drink cool water, apples are cooked and drink cool, except for apple disease.;
Bởi có bịnh táo nên mới đặt tên là trái táo.; Because of an apple disease, it was named apple.;
Nhà vua Mông Cổ thâu thập của dân, nên người Tàu hủy mạ đặt tên là Táo quân.; The Mongol king collected from the people, so the Chinese destroyed the rice and named it Tao Quan.;
Các quan võ của vua ấy người ta ố ngạo là Thần Táo, các quan văn của Mãn Châu, người Trung Hoa sỉ mạ là Thiên Táo.; The martial officials of that king were shamed as Shen Tao, the mandarins of Manchuria, and the Chinese insulted them as Thien Tao.
Hồi thuở Tôn Văn Cách Mạng, lập Trung Hoa Dân quốc, lật đổ Mãn Thanh, người Tàu phỉ báng gọi người Mãn Châu là: Thổ-táo.; During the time when
Ton Van Revolution, founded the Republic of China, overthrowing the Manchu, the Chinese slanderously called the Manchus: Tho-tao.;
Người ta gọi ba cục đất đội nồi là ông Táo, Thổ-táo, Táo-công, là nói sự tham lam vơ vét, đội nồi cơm, ơ cá của dân là kẻ văn võ quan, vua nhà mọi. Họ tham, sân si, dốt nát, ngồi trơ như cục đất, chỉ có tài hả miệng phun lửa, ăn lửa, đội chảo nồi. Trước kia xứ Tàu, dân tình rất kính trọng quan vua, vì vua phải là bậc thánh minh, và quan phải là bậc hiền sáng, chơn chánh thanh liêm, xem dân như em ruột, vì vậy mà mỗi nhà dọc hai bên đường đều có đặt bàn nghi án, gọi là bàn Thiên quan tứ phước để tiếp nghinh sự huấn dạy. Mỗi khi vua hay quan đến, người ta tiếp rước, và khi đi về thì người ta tiễn đưa, thật là long trọng. Nhiều vị quan, khi cuối năm, về triều chúc thọ vua, và đem sổ bộ về dâng nạp, bởi ở xa nên ngày 23 – 24 đã khởi hành. Dân chúng tiếc mến ơn đức khóc lóc lạy đưa, và cầu xin cho có ngày trở lại. Cũng vì thế mà đối với quan Mông Cổ họ bị ép buộc rước đưa, quan lại còn đòi ngựa ô, xe phụng lễ vật, lộ phí, đủ thứ… Vậy nên dân chúng bất bình nổi loạn, họ cho đó là cách đưa ông Táo về Trời (Trời đây là Thiên tử, vua Mãn Thanh). Họ bày ra lễ cúng trước mặt quan, nào là cắt ngựa giấy, cắt hạc giấy để đưa ông Táo, nào là may áo, sắm mão, cắt hia giấy, đưa ông Táo, nào là chè xôi muối gạo đưa ông Táo, lo lót cầu xin, lão Táo về vua Trời đừng tâu thêm bớt, hãm hại dân lành, vì lẽ năm này họ nghèo quá, không còn tiền của chi mà hối lộ, họ lấy giấy súc phết sơn màu vàng bạc, mà đốt tống đưa đi. Việc làm ấy ai hỏi, thì họ gọi là ngày cúng đưa ông Táo, bởi ông Táo linh thiêng lắm. Họ làm như vậy, là để khêu gợi tức khí của người nghĩa hiệp có tâm huyết ra tay cứu gỡ ách nạn cho dân tình, hoặc để cho hả hơi hờn oán của họ, hơn nữa là để ghi sâu một vết tích cho dân Tàu, đừng quên mối hận thù chung, việc hồi xưa, bên Tàu, thế mà ngày nay xứ này người ta cũng cúng lạy rước đưa ông Táo.
Cho đến trong một hai nhà chùa, lại cũng đưa ông Táo hối lộ nữa, và từ ngày ấy đến tiết xuân, là không đánh chuông trống, bắt chước như các nha môn quan lại, đóng cửa bãi hầu, trong ngày quan về triều vắng mặt, tệ cho đến nỗi, tối đêm ba mươi, cư gia mời thỉnh rước ông bà cha mẹ, lên ngồi trên cao chính giữa, cho con cháu lạy chúc thọ. Trong chùa ấy các sư không biết rước thỉnh ai, thôi thì rước ông Táo, hay là rước chư Thiên, vì có lẽ người tu xuất gia, là cha mẹ đã được siêu thăng lên thiên đường rồi.
II.- TIẾT XUÂN
Tiết xuân là mùa bông hoa cây trái của thọ tình. Mùa xuân như mới sanh, mùa hạ như người nhỏ, mùa thu như người lớn, mùa đông như ông già. Mới sang xuân như sanh lại một lần, như đã trải qua một thời kỳ đau khổ. Mà lòng của người lại mong ước sự vui tươi cười đẹp như hoa mai cổ thọ. Sự chúc thọ của người tính tuổi theo cây, y như thế, mà ngày nay xứ này người ta còn gọi là Tết, chữ Tết là giọng nói trại của người Tàu, và người ta quên lửng rằng đó là tiết xuân của loài cây, cũng vì sự không chịu hiểu đó, mà các ông già xưa lại gọi ngược là ăn chết, nghĩa là ăn để chết, câu nói ấy rầy con cháu, và cũng là lời nói mỉa mai, ám chỉ sự ham ăn uống nô đùa của một hai ông già mất hạnh.
Mà thật ra đúng như vậy, ngày tiết xuân là ngày chết của nhân loại, họ chết mất trí, mất tâm, và họ chết lăn đùng ra cả vừa thân mạng. Thuở xưa xứ Tàu dân chúng phân chia ranh tộc, mỗi họ mỗi thôn trang, có cổng rào tường lũy. Và ăn cướp xứ Tàu, ở non núi muôn ngàn, thường hay bắt người ăn thịt, đốt phá thôn trang châu quận, thừa những lúc dân dã say sưa, canh phòng bỏ xuội, trong ngày xuân nhựt, mà dễ bề cướp phá, đốt pháo hiệu nổ vang trời, làm cho dân tâm tán loạn, mà thừa cơ đột nhập.
Người ta gọi chúng nó là quỉ sơn pháo! Muốn ngăn ngừa trộm cướp, các ông già bày ra mỗi nhà cắm một cây tre cao trước cửa, cột treo lồng đèn để soi rọi ánh sáng khắp nơi, vài trái cau khô, là ý nghĩa cao xa của các ông già, và một tấm giấy đỏ, vẽ tứ tung ngũ hoành, thành ra cái hàng rào, là nhắc nhở phải ngăn rào trộm cướp, trong lúc vui chơi. Người ta gọi đó là lá bùa Thái thượng Lão quân (Lão tử) vì người xứ Tàu tin sợ Lão tử lắm, họ gọi như thế là để cho trẻ nhỏ biết kính trọng việc làm ấy. Người ta còn bày đặt sự đốt pháo, mỗi nhà đều có pháo, pháo lớn, pháo nhỏ, khi thấy có trộm cướp đến, người ta đốt pháo hiệu báo tin, nối chuyền với nhau vang dậy, vừa là để cho dân chúng hết sự say mê, và là thị oai với trộm cướp. Bởi trong sự đánh nhau, hễ ai phòng thủ trước, đốt pháo ra tay trước là sẽ thắng trận, thứ pháo thăng thiên, tức là đèn rọi chỉ hướng báo tin, trong đêm trời tối rất công hiệu.
Mùa xuân trong nhà vua chúa, tối ba mươi các quan tựu hội, xem hát chờ giờ, 11 giờ khuya vào làm lễ chúc thọ vua, và nhà vua đãi tiệc khen thưởng các quan 3 bữa! Ngày mùng bốn đã tất, nghĩa là hết. Các quan tại triều thì lo làm việc xem xét sổ bộ, các quan ở xa về, thì đi về thăm bà con ba bữa; còn bá tánh thì vui chơi bảy ngày, thắp đèn chưng bông giắt lá, lập vườn huê giả nơi thành thị, che khuất cửa nhà, ban đêm ánh sáng như ban ngày, để dạo cảnh vui chơi, cho kẻ cần lao giải trí, hầu xóa quên những ngày khổ nhọc, họ vui chào mừng cỏ cây hoa trái, để ôn lại cảnh rừng xưa, dưới bầu sao trăng, của cổ nhân, sống chung cùng thú cỏ cây tinh thần tươi đượm, ấy là sự tinh khiết trong sạch, cao thượng đáng kính; mà ngày nay con cháu lặn hụp lấm lem trong trần, mảng mãi đua bơi, không thời giờ nhắc lại.
III.- TAM NGUƠN
Mãn 7 ngày, mừng xuân chấm dứt, hạ nêu bãi cuộc, phận sự bắt buộc ai nấy phải lo làm trở lại, và các quan ở xa lần hồi đi trấn nhậm, cho kịp ngày rằm nha môn mở cửa. Ngày Rằm, quan ra khách thăng đường, đọc chiếu chỉ vấn an trăm họ, và bá tánh thỉnh chúc thiên quan, tiếp nghinh sứ mạng đặt bàn hương án. Ngày Rằm tháng Giêng ấy, là ngày Thượng nguơn, Thiên quan ra mặt, dân chúng chào mừng các quan, và đi viếng thần tế miễu, nhắc nhở người quan xưa trước. Chuyện thuở hồi xưa, mà đời nay xứ này lại đi cúng lạy. Những chuyện đã khác xa, không còn dùng được cho mỗi lúc, không biết rõ đuôi đầu, mà người ta chỉ đua nhau lo cúng lạy.
Ngày Rằm tháng 7 xưa tại xứ Ấn Độ là ngày Tăng tự tứ, của các nhà sư, còn các cư gia thì lo cúng dường nghe pháp. Tại xứ Tàu ngày ấy kẻ nông dân khởi hành ra đồng ruộng, họ đãi tiệc từ giã gia đình, để đi vào rừng núi, họ cúng vái quỉ thần, tế lễ Thần nông ấy là phần việc của người làm ruộng, chớ không phải của tất cả, nên kêu gọi là ngày địa quan Trung nguơn! Ngày Rằm tháng Mười, kêu là Hạ nguơn thủy quan, thuộc về phần việc của người chài lưới, cùng kẻ buôn bán thương thuyền, đến mùa nước lớn lui ghe ra biển cả, họ đãi tiệc từ giã thân nhơn, và cúng kiến quỉ thần, để một phen ra đi, dữ nhiều lành ít. Đời sau người ta ít tu tạo nhiều nhơn nghiệp vì quả báo nạn tai hãi sợ, mà tham cầu cúng vái, sự mê tín đến đỗi mỗi ngày trùng tháng, người ta cũng cho là linh thiêng mà cúng nữa. Ngày mùng năm là ngày tiết xuân mãn, họ cũng cúng kiến rất long trọng. Người ta vì chưa hiểu đạo, chưa biết rõ công lý, luật nhơn quả của võ trụ, nên người ta rất ỷ lại thần quyền, đức tin rất mạnh, vì tin tưởng mà quên mình chết sống, vì mờ quáng mà không phân ác thiện, khó được giác ngộ. Kẻ mê tín mà được thiện là rất ít dầu họ có thiện đi nữa, thì đời nay, không thể giác ngộ thành Phật được, vì kẻ mê tín thì hay chấp khư một việc, không thể đắc trí phương tiện của nhơn duyên, và không tự chủ.
IV.- CÚNG TẾ
Đành rằng sự tế lễ là tốt lắm, nhưng vì lòng tham, tập tánh tham cầu vái riêng mình, là tập tâm ích kỷ, điều ấy đâu phải thiện thì phước báo đâu có nơi sự làm ác. Cúng tế thánh hiền, là sự biết kỉnh đạo, kỉnh bậc tiền bối, trọng kỉnh trí đức là phép để trau tâm, phước quý lắm, nhắc nhở tiền nhân để đem lại hậu sự của mình, là tốt quý vô cùng, còn hiền thánh thì lại vô tư, ta cầu vái buộc tội cho các Ngài làm chi.
Cúng tế để biết khiêm nhường kẻ chết, đặng không ngang bạo giết hại người sống, mang ơn mến đức mà thờ, nghe dạy là lạy, biết kỷ niệm lịch sử mà giữ mình, có như thế mới tập tánh nên người minh đức. Vậy nên sự cúng tế là tốt cho tâm tu, trí học, mà nên cúng tế thánh hiền, chớ đừng vái cầu ma quỷ, và phải hiểu kỹ lịch sử, lý nghĩa, sẽ nên thờ, còn việc nào nhảm nhí không rành, thì cũng nên bỏ luôn đi cho rảnh nhẹ.
Ví như ngày mùng 1 tháng Giêng, người ta nói là ngày kỷ niệm đức Di Lạc, mà đức Di Lạc thì chưa thành Phật, chưa ra đời, không ai biết lịch sử ngày giờ chỗ ở, thế mà lòng vọng tưởng trông mong của người tin tưởng, là để dành ngày mùng một đầu năm cho Ngài, vì Ngài sẽ thành Phật sau Phật Thích Ca, mà không biết sẽ ở về thế giới nào sau này, thế mà ráp nhau cúng vái, cầu xin phò hộ, nếu thử có ai hỏi lịch sử, kỷ niệm chi của ông ấy để lại cho người tôn kính đó, chắc là không có.
Cũng như nghe nói 9 phương Trời, 10 phương Phật thế là ngày mùng 9 tháng Giêng là vía đức Ngọc Hoàng, và ngày mùng 10 là ngày vía chư Phật chung, thật vô lý quá, không có dấu vết kỷ niệm gì cả. Người ta cầu vái rồi ngồi ngó mặt nhau xẻn lẻn lặng thinh, nếu thử ai hỏi lịch sử, thì nói không biết, thật lếu cho người làm cái việc mà mình không biết, thì có ích lợi gì cho ai.
Cũng như ngày Trung thu thưởng nguyệt, mà người ta cũng cúng tế vua Đường Minh Hoàng, là ông vua dâm dục nữa. Nói gì đến những ngày vía. Vía nghĩa là gì? Vía là phách, phách là tình, là cái ý tưởng mê muội theo 7 tình: buồn, vui, mừng, giận, thương, ghét, muốn, mà các vị Phật Thánh, lại còn có vía dại là ý tưởng phách tình hay sao, mà cầu vái? Nào là giáo lý chi, các vị ấy để lại có ích sáng cho đời, và ai đời nay mà biết được việc trên trời chức phận danh từ ngày tháng của các vị ấy, và các vị ấy hằng ở một bực không có biến đổi sao?
Bộ truyện Phong thần của ngài Bạch Vân Hòa thượng. Bộ sách Tây du của Ngô Thừa Ân, hai Ngài bịa đặt thêm vào việc Thần Tiên Phật Thánh, trong khoản lịch sử của Thương Châu, và lúc Trần Huyền Trang đi du học, cùng với các bộ tiểu thuyết thần tiên, lấy pháp lý diễn ra sự việc vui chơi, thế mà có kẻ bịa ra sự thật mê lòng chúng, lại lấy ngày tháng của mỗi Phật Tiên gì đó, đi đâu ở đâu, mà biên làm Phật lịch, cho người cúng vái, cúng vái cái tên ông trong tiểu thuyết vọng ngôn, không hình bịa đặt. Cùng là ai sanh ra, đúng ngày giờ ông bà nào trong sách truyện đó, là con của ông bà đó, phải lo cúng vái. Ai chết, hoặc bệnh đau, hay tai nạn chi do nghiệp báo, đúng ngày giờ ai trong sách ắt là phải mau lo cầu xin, dầu người của trăm ngàn năm ở xứ nào cũng lo khấn nguyện. Người ta biên ra tên người, của trong những quyển sách, rồi kêu gọi ó réo, không biết bao nhiêu những ông với bà, ma tà, Thần Thánh Phật Tiên, để làm cho người bịnh ghê sợ mà hết bịnh, để làm cho con ma quỉ mê muội kia, tưởng đâu có thật mà bỏ chạy đi. Họ kêu réo mãi làm cho quỉ thần ở xung quanh, thấy rõ lâu ngày không có ai hết, nên bèn nhập bướng lên đùa, xưng Tiêân Phật cho họ.
Cho đến họ thờ cả quỉ La sát Dạ xoa, quỉ vương, tinh yêu, hồi đời nào trong truyện bịa thuyết, họ đóng trang tạo tượng, xây cốt, lập đền thờ mãi, kêu hoài cho ma quỉ nhập vô, bữa nào quên cúng, thì chúng nó bắt bớ quở phạt, cũng như sự rước kẻ du côn làm thực khách, nuôi ở trong nhà, bữa nào ăn cơm quên mời, là bị nó đánh đập. Mà người ta quên rằng sự kính thờ Phật Thánh, là mến đức trau tâm, dầu không đốt nhang, bỏ lâu quên lạy, các Ngài cũng không quở rầy chi cả. Người ta mãi tưởng quỉ thần, còn cứ ở một chỗ, một lớp đó hoài, và để đi chứng kiến cho bao nhiêu kẻ thiên hạ khắp xứ, vái cầu kêu réo làm tội họ mãi. Người ta quên rằng quỉ thần tuy vẫn có xung quanh ta, cũng như tướng tá quân binh kia, họ nay mai dời đổi, chớ đâu phải đứng hoài một chỗ, làm mãi một việc; cũng như ta hãy hỏi lại tâm ý ta, coi ta có chịu làm quỉ thần mãi được không? Mà sự thật, là người ta thờ vái ngòi viết của tác giả, chớ không có cõi này ông bà kia chi cả. Nhưng mà có ai tin tưởng cầu vái mãi, thì quỉ thần xung quanh đó, cũng sẽ ứng thinh một lúc cho họ vậy.
V.- QUAN VÂN TRƯỜNG
Cũng như Quan Vân Trường, ngòi viết đời sau phong cho ông làm chức Hồng diện Đế quân, vì ông là một vị tước vương mặt đỏ, em vua Lưu Bị, và vì cũng có chùa muốn cho các quan kính nể đạo, nên đem cốt tượng ông vào chùa, phong làm chức Hộ pháp Già lam Thánh chúng Bồ Tát, và tín đồ đạo Phật, thì gọi ông đã tu lâu đời, chắc thành Phật rồi, nên ráp nhau lo cúng lạy. Có nhà sư cũng lạy nữa, rồi thì cũng có bộ kinh của ông ấy, do các vị võ quan chép lại lịch sử, vì mến trọng đồng tâm, mà bảo ai nấy phải đọc tụng, đặng tập gương nghĩa dõng, xúi sự đua tranh ở nơi cửa thiền, theo như kẻ thế. Thậm chí đến đỗi, có người quá tin tưởng, nghe nói thờ ông cữ ăn thịt trâu, ban ngày lỡ ăn, tối về lo sợ, chiêm bao thấy anh đồ tể, xách dao rượt chạy, họ cho là Châu Thương hiển hích. Người ta thờ bằng đức tin, chớ ít ai thờ giáo lý. Cho đến bà Nữ Oa, bà Cửu Thiên, bà Lê Sơn, các bà của pháp lý ngòi viết hồi ngàn xưa, đời nay ở xứ nào đâu, người ta cũng thờ lạy nữa.
VI.- ĐÌNH THẦN: Trong xứ ta mỗi làng đều có đình thờ thần, thần đây là quần thần, quan võ tử trận. Quan võ là A tu la ác thần, thấp hơn nhơn loại. Nhơn loại là kẻ bình dân sống trong gia đình, có lòng nhơn, có thể giữ được một giới không sát hại còn quan tướng dữ hung không thua beo cọp, bênh vực phò tá cho một người vua riêng, mà nỡ lòng sát hại sanh linh, không có chữ nhơn, người, chút nào cả. Bởi đời không có đạo đức, lấy sức mạnh quyền thế xưng hùng, nuôi kẻ dữ bảo hộ quanh mình, nên đem danh lợi cám dỗ phong thần khuyến khích. Thần là kẻ nô lệ trung tín theo vua, là những kẻ ăn thịt tươi, uống máu sống, không hôi tanh, chưa phải đến lớp người, được cần nấu luộc, thế mà người ta lại thờ cái quái ác ấy, lạy bái noi gương, để bỏ đường nhân loại chăng? Đã vậy nào thôi, khi cúng tế mỗi năm, người ta lại đem chuyện giết người khen hay mà nói, và tôn trọng cái chức tước giựt giành, xưng danh, vật lộn, người ta lại giết trâu heo, để nguyên còn sống, dâng cúng trước bàn thờ, rồi xúm nhau lạy trước xác chết trâu heo mà xin tội, vì người ta sợ nếu không cúng là thần quở phạt. Ngày xưa người ta cúng bằng cách buộc lòng, thế mà ngày nay cũng có kẻ lại vì muốn ăn, mà bày ra cúng kiến.
Người ta để thây ma từ sáng tới chiều cho hôi hám, rồi mới đem ra chặt xé phân chia, gọi là bắt chước cái ăn miếng thịt của thần, thì thần nhìn nhận làm con cháu, ủng hộ cho xác thân. Tệ đến nỗi, người ta lại còn chìu chuộng lo lót với tà thần, là lén lén lấy chén hứng lấy máu trâu heo, đuôi móng, và cạo gọt một ít sợi lông đất, ngoài da con thú, để vào trong chén, đậy kín bịt miệng, che mắt người ngoài, rồi đem để ngay giữa kế lư hương trên bàn thờ, mà khấn vái, người ta cho việc làm như vậy, là vừa ý ác thần, vì thần quỉ thì hay ăn lông uống huyết thiên hạ, ai xu hướng theo thần quỉ làm việc ấy, ắt được ban khen, thương mến.
Ở trong một xứ dân tộc văn minh, đầu óc của nhân đạo, người ta đã mặc áo quần tốt đẹp, người ta muốn tiến hóa cao siêu, mà còn làm được những việc của lớp cổ nhân xưa, thật là đáng tiếc. Cũng vì vậy mới có đồng bóng pháp phù, làm Tiên Phật ợ ngáp, kêu đòi vịt ngỗng đầu heo. Sự thật thì Phật Tiên thần quỉ, có đòi hay không có hưởng hay nhịn, nào có nề hà gì, miễn là bà con, kẻ tay sai còn sống đây, có thịt rượu ngon miệng, thế mới a tòng cổ võ hoan hô, xúi mấy chị đàn bà khấn vái nguyện cầu, để cho họ được dựa phần toại hưởng. Bởi vậy mới có kẻ nói rằng Thần Tiên Trời Phật tuy không ăn thịt, nhưng đòi thịt của chúng sanh cúng kiến, là để cho binh gia tướng tá bộ hạ của các Ngài (chớ nếu không có kẻ tay chơn của các Ngài, thì các Ngài đâu có ra mặt mày tên tuổi được! Vì không có rượu thịt, thì ai công đâu đi tán tụng các Ngài làm chi cho mỏi miệng).
Thuở xưa kia, nơi xứ Tàu giặc giã. Từ Mậu Công giả làm thầy bói, Miêu Quang Nghĩa giả làm thầy coi tướng, nữ tướng giả làm bóng chàng, quan văn giả làm thầy thuốc, tướng võ giả làm thấy pháp, hoặc hát sơn đông, họ trà trộn binh gia, chen lộn vào dinh thành giặc nghịch, để làm nội ứng, để thám thính tin tức, để trộm cắp giấy tờ, hành thích tướng quan, thật là ích lợi, họ bày cớ sự để qui tụ nhóm đông, chiêu binh mãi mã, tích thảo đồn lương, quến dụ tâm người, cướp tù phá ngục!
Đó là việc hành binh thuở trước, phương chước kế mưu, thế mà sự di truyền đến đời nay, đã thành ra đạo lệ, làm cho dân chúng mãi si mê, khuấy rối tinh thần, đảo điên phong hóa, trách gì xứ khác chẳng chê cười, mà dễ bề lôi cuốn rủ ren bày đặt.
VII.- BÀN THIÊN THẦN
Lại như cái bàn chư Thiên ngoài sân ngay trước cửa, vốn khi xưa xứ Lỗ bên Tàu theo Nho giáo, dân dã trọng đạo vua quan, ấy là bàn thiên quan tứ phước. Thiên là vua, Thiên tử, quan là bá quan văn võ, tứ phước là cho phước thái bình, tức là bàn hương án dọc hai bên đường, để tiếp rước vua quan mỗi ngày qua lại, ở tại kinh đô, vì nhọc công đem ra dọn vô, nên họ để cắm luôn nơi đó mãi! Đó là bàn nghi án, chỗ thắp hương chưng hoa, khi lễ cuộc, chớ không phải trời thần nào. Theo như đời nay người ta nói là bàn Thiên thần, mà lại có cúng âm binh muối gạo nữa, và luôn sẵn dịp thêm vị chè xôi. Người ta có biết đâu âm binh là binh trong rừng mai phục, một khi tôi loạn soán ngôi, nhà vua mất nước, chạy trốn trong rừng núi, chiêu binh mãi mã, tích thảo đồn lương, âm thầm mưu dựng công cuộc ngày mai chinh phục, những nhà đồng chí ở trong thành thị, là những cơ quan chấp chứa, dấu hiệu riêng của người ta là: gạo muối lương mễ có sẵn nơi đây, chén chung nước là chung lo việc nước, cái bông vạn thọ là lịnh Thiên tử, muôn năm vải đỏ lá huyết kỳ là nơi hội họp khởi nghĩa, đem thân huyết chiến vấy máu nhuộm sơn hà, nhà có dấu hiệu riêng ấy tức là chỗ động dụng của binh gia mai phục vậy.
Những việc làm ấy, rất đúng theo trong những trường hợp chớ không phải là cúng vái bên ngoài, nhưng đối với đàn bà, thì đâu có ai chỉ bảo, tội nghiệp cho những người tu, cứ chín phương trời vái cầu lạy mãi, mà cái ông cữu ngũ ngôi vua kia, lại chẳng biết, và nào có hay gì đâu. Lại thêm có vị chè xôi hối lộ cho ông Táo tham quan cũng chung lộn trong đó nữa. Mãi nói làm những việc không hiểu nghĩa lý, thật là có hại biết bao nhiêu. (@640px@)Tham khảo; Refer: